Nàng Tô
Truyện ngắn của Vi Thị Thu Đạm

02/05/2013 08:27

Một buổi trưa hè oi ả, Tô Thị gội đầu, nàng ngồi hong tóc bên hiên. Trên chiếc chõng tre ngoài hè, chỗ có bóng mát, con gái nàng đang nằm ngủ. Mặc dù thi thoảng có cơn gió thổi từ bờ sông, tóc con bé vẫn ướt bết vào hai bên thái dương. Con nàng đã sắp tròn hai mươi tháng mà vẫn ngồi chưa vững, bởi thế mà chồng nàng thương con bé lắm. Chàng đương ngồi vót từng chiếc nan tre để đan lồng nhốt dế cho con. Chẳng là tối qua, khi chàng đi rừng về, đương ngồi ôm con trước cửa, một con dế chợt kêu ri ri trong bụi cỏ trước hiên nhà. Chàng nói “Dế! Con dế… Con dế kêu!” Con bé con u ơ mỉm cười: “Ế… ế”. “Nàng ơi! Con nói! Con nói này!” Chàng hét đến lạc cả giọng. “Sáng mai bố sẽ kiếm tre về đan lồng nhốt dế cho con. Bố sẽ bắt cho con thật nhiều con dế”. Lúc đó, chàng đã bế thốc con bé, chạy vòng vòng khắp nhà. Giờ thì chàng đang cặm cụi chẻ tre để thực hiện lời hứa với con gái, nhưng chốc chốc lại bực mình vì lũ cún con cứ xoắn xuýt quanh chàng. Ngồi gần chồng tiện tay Tô Thị gõ cán quạt vào lưng mấy con chó con, đoạn nạt: “Hư này! Đi ra ngoài! Ra ngoài!” Nàng quay người, vô ý để mái tóc xõa rủ xuống tấm lưng để trần của chồng. Tô Văn ngừng tay dao, se sẽ mỉm cười. Kéo đầu vợ kề vai mình, chàng nói vờ như hốt hoảng:

- Nàng có sợi tóc bạc này!

- Đâu? Đâu?… Chàng nhổ nó cho thiếp - Tô Thị chừng như hốt hoảng thực sự.

- Đây!

Tô Văn cười lớn, đoạn đưa một sợi xơ lạt cho nàng. Biết chồng đùa, Tô Thị đỏ mặt cười.

- Nhưng để ta tìm xem nào, biết đâu nàng có tóc bạc thật rồi.

Một lần nữa, Tô Văn lại nhẹ nhàng kéo đầu vợ về gần mình, chàng vuốt mái tóc đen dày óng ả của nàng, mái tóc thường khi phải vấn cao lên và buộc chặt. Bỗng chàng phát hiện ra một điều lạ mà xưa nay mình chưa từng biết, chàng ngỡ ngàng:

- Ơ… này… Trên đầu nàng có một vết sẹo to!

Một lần nữa, Tô Thị lại đỏ mặt, nàng vén vội mái tóc xuống, hấp tấp nói:

- Chàng chê xấu ư?

- Không. Chỉ là nàng chưa từng nói cho ta biết mà thôi

- Vết sẹo này… - Tô Thị ngập ngừng - Nó không chỉ là vết sẹo thôi đâu, nó gợi cho thiếp nhiều chuyện buồn thuở nhỏ mà thiếp không muốn nhắc tới…

Thốt nhiên, Tô Văn lạnh người:

- Chuyện buồn thuở nhỏ. Nàng không muốn kể cho ta nghe sao?

- Thì… Chàng vẫn biết em chỉ là con nuôi của gia tộc họ Nguyễn.

- Ta cũng chỉ là con nuôi của gia tộc họ Lý ở bên Cao Bằng. Bố mẹ ta cũng như bố mẹ nàng đều đã không còn. Nàng cũng biết điều đó mà.

- Nhưng em còn có một người anh trai.

- Một người anh trai ư? Nàng chưa từng nói điều đó với ta lần nào.

- Vâng. Bởi vì có mà cũng như không có. Anh trai thiếp bỏ nhà đi biệt tích từ năm mười tuổi, khi ấy thiếp mới lên tám tuổi.

Tô Văn nghe như một tiếng sét đánh ngang tai khiến đầu óc chàng đau nhức dữ dội. Chàng buông rơi con dao xuống đất.

- Kìa chàng - Tô Thị kinh ngạc kêu lên khi thấy mặt chồng biến sắc.

- Không. Không. Nàng kể tiếp đi. Chỉ là bất ngờ quá thôi.

Ngập ngừng một lát, Tô Thị nói tiếp:

- Chàng muốn biết thì thiếp sẽ kể cho chàng nghe ngọn ngành. Thiếp cũng đâu muốn giấu chàng.

Nàng Tô<br><i>Truyện ngắn của Vi Thị Thu Đạm </i> ảnh 1
Minh họa của Thúy Hằng

Rồi nàng kể: nhà thiếp xưa ở trấn Kinh Bắc. Cha thiếp mất sớm, một mình mẹ thiếp phải sớm hôm làm lụng nuôi hai anh em thiếp. Một hôm mẹ ra đồng, hai anh em thiếp nghịch chơi ngoài bãi. Thế rồi anh thiếp vô ý ném đá trúng đầu thiếp, thiếp ngã ngất, máu chảy ra lênh láng. Tưởng thiếp chết rồi, anh thiếp sợ quá bỏ chạy một mạch ra đường. May sao lúc đó có bà hàng xóm đem nắm thuốc lá rịt lại vết thương cho thiếp. Khi mẹ đi làm đồng về thì thiếp đã tỉnh rồi. Nhưng còn anh trai thiếp thì vẫn biệt tăm, mấy hôm cũng chẳng thấy về. Mẹ thiếp nhờ người đi tìm khắp nơi khắp chốn cũng chẳng thấy anh đâu. Mẹ sinh buồn phiền mà ốm chết. Thiếp được một gia tộc họ Nguyễn mang về nuôi, sau họ lên Xứ Lạng mở hàng nem, mang thiếp đi theo…

- Chàng… Chàng vẫn biết em chỉ là con nuôi của gia tộc họ Nguyễn mà - Tô Thị nhìn chồng ngần ngại.

- Thì chuyện ấy cả phố Háng Cưa này đều biết - Tô Văn khó nhọc trả lời - Mà thôi, muộn rồi, nàng đi bắc nồi nấu cháo cho con đi!

Buổi tối mùa hè, ánh trăng buông trong vắt, thăm thẳm trên cao, vầng trăng bình thản ngự trên buồn vui trần thế ngàn đời. Tô Văn nằm ngả người trên chiếc chõng tre ngoài hiên, bầu rượu không còn một giọt, mà chàng thì vẫn chẳng thể say. Đăm đắm nhìn trăng, Tô Văn nghe tim mình rạn vỡ, nhức buốt nơi lồng ngực, biết bao đau thương, buồn thảm. Chàng tự nhủ thầm: “Chao ôi, trấn Kinh Bắc nơi quê nhà, mẹ chết, người anh mất tích… Số phận thật là quá trớ trêu. Sao mình không là một kẻ khác mà lại là Tô Văn!” Chàng hồi nhớ những ngày xa xăm, cái ngày chàng lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên đã chạy trốn, đi lang thang không dám trở về nhà. Rồi chàng được một người buôn thuốc Bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, Cao Bằng. Lớn lên chàng lấy họ cha nuôi là họ Lý. Theo nghề cha nuôi, chàng thường đem thuốc Bắc từ Trùng Khánh, Cao Bằng sang Lạng Sơn bán. Một lần, chàng vào quán hàng Nguyễn Thị (Tô Thị cũng theo họ cha mẹ nuôi là họ Nguyễn) ở Háng Cưa nếm thử món nem chua, chẳng ngờ vẻ đẹp mặn mòi, hoạt bát của cô hàng làm Tô Văn nhớ mãi. Thế là từ đó, lần nào đến Lạng Sơn giao hàng, chàng cũng ghé thăm quán nem Nguyễn Thị đến thành quen. Quen rồi thành thân. Trai chưa vợ, gái chưa chồng, thân nhau rồi đến yêu nhau lúc nào không biết. Chàng xin phép cha mẹ nuôi, xin lấy nàng Nguyễn Thị làm vợ. Sau khi cưới, chàng ở lại Lạng Sơn vừa lên núi hái thuốc bán, vừa phụ giúp cho hàng nem của vợ. Hai người lấy nhau đã gần được hai năm, lại thêm được mụn con, tình vợ chồng càng thêm khăng khít. Ai ngờ đâu… Sự thực là cha mẹ nuôi của Tô Văn cũng đã có lần muốn tìm lại quê hương bản quán cho chàng, nhưng hỏi thăm thì mẹ đã chết, em gái nhỏ cũng không còn manh mối. Vậy là chàng đinh ninh rằng gia đình mình ở miền xuôi không còn một ai nữa. Quê cũ đối với chàng bấy lâu nay như trong sương mù, không còn tưởng nhớ để làm gì.

Gà đã gáy sang canh. Bên trong buồng, Tô Thị trở mình, nháng lên trong ánh trăng đêm, cái eo lưng thon mềm của nàng. Chàng rùng mình nhắm mắt. Ngửa người trên chõng tre, chàng giả vờ cất tiếng ngáy vang vang đều đều. Trong đau đớn, còn thoáng nghe tiếng thở dài của Tô Thị trước khi trời hừng sáng.

Sáng hôm ấy, Tô Thị nấu bát cháo hành bưng lên cho chồng. Vừa lúc con bé con thức giấc và kêu lên: “Ế… ế… ế…”. Trong lúc Tô Thị còn đang ngơ ngác thì Tô Văn quắc mắt: “Nó đòi nuôi dế. Con dế. Con dế. Nàng không hiểu gì ư? Thật là quá quắt!” Rồi chàng lật vội tấm khăn mỏng phủ trên chiếc đấu để ở góc nhà. Bên trong chiếc đấu, con dế mèn đã chết nằm co quắp. Thấy con dế chết, con bé con khóc òa. Vừa lúc, Tô Văn vơ vội con dao, lạnh lùng nói: “Ta phải lên rừng tìm thêm tre đan lồng dế cho con” rồi vội vã ra đi.          

Chiều muộn, Tô Văn mới trở về nhà. Con dao vẫn nằm im trong bao dao đeo bên hông chàng. Không một cành tre, trên tay chàng chỉ là một bầu rượu trong khi khắp người chàng cũng sực lên mùi rượu chua nồng. Cục ức trong ngực nàng Tô sáng nay mới chỉ bằng nắm tay thì bây giờ lớn lên thành cái đấu. Dọn mâm cơm lên cho chồng, nàng Tô gạt nước mắt lặng lẽ ôm con lui vào buồng trong. Mâm cơm tối Tô Văn không hề động đũa. Chàng uống rượu, lặng lẽ ngắm trăng, hỏi trời sao không thấu nỗi oan nghiệt mà anh em chàng phải chịu.

Bên trong màn, Tô Thị nước mắt ngắn dài. Bữa nay sao chàng lạ thế? Nghĩ tình nghĩa phu thê bấy lâu ăn ở với nhau trọn vẹn như bát nước đầy, lòng nàng Tô dịu lại. Vợ chồng đầu gối tay kề chẳng hơn là nói những lời đao to búa lớn hay sao? Chắc có lẽ chàng có tâm sự gì uẩn khúc trong lòng, chi bằng ta hỏi han chàng xem sao? Nghĩ vậy nàng vén màn bước ra, đi đến gần chồng. Chưa chạm vào người chàng, hơi ấm và mùi thơm tỏa ra từ cơ thể nàng đã làm Tô Văn dường như hốt hoảng: “Xin nàng đừng đụng vào người ta! Nàng… Ta…” Tô Thị chưa kịp định thần, Tô Văn đã vội nói tiếp: “Ta đã hứa là làm cho con cái lồng dế, vậy mà… Ta chẳng ra làm sao cả… Thôi, nàng vào trong với con đi. Mai ta lên rừng tìm thêm tre về đan xong cái lồng dế cho con đã rồi… rồi…” Tô Thị bần thần trở lui vào trong mà nặng lòng băn khoăn, lẽ nào chỉ vì cái lồng dế thôi ư? 

Sáng hôm sau Tô Văn lại rời nhà từ mờ sương cho đến khi tối mịt mới trở về. Một tay cầm một đoạn tre, tay kia bầu rượu. Mắt chàng đỏ vằn hơi rượu. Mâm cơm Tô Thị dọn ra, chàng không hề động đũa, chỉ ngồi uống rượu hòa với chính nước mắt của chàng, nỗi đau của chàng.

Nằm ôm con, Tô Thị buồn phiền, dõi mắt ngóng nhìn chồng. Ánh mắt nàng thì lo âu mà dưới lần vải mỏng, những đường cong cơ thể phơi phới thanh xuân vẫn như những lưỡi dao nóng bỏng cứa vào trái tim Tô Văn khiến cho chàng không một lần ngoảnh mặt nhìn vào.

Ngoài trời, trăng vằng vặc sáng. Áo quần Tô Văn ướt lạnh sương đêm mà trong lòng chàng nóng như lửa đốt. Trước sau gì cũng phải nói rõ chuyện này cho em gái. Sau rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Có thể rồi em ta sẽ không chịu nổi phải nhảy xuống sông mà chết vì nỗi oan nghiệt. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Tô Văn. Không thể để em ta biết chuyện này. Phải rồi. Ta sẽ lại bỏ đi lần nữa. Em gái ta trẻ trung, xinh đẹp nhường kia, làm gì chả lấy được một người chồng khác. Ông trời để cho mình biết cơ duyên, thì mình phải gỡ mối cho xong, âu cũng là trời định. Nghĩ được tới đây, chàng vùng dậy, chẻ tre đan lồng dế cho con ngay dưới ánh trăng đêm. Khi chiếc lồng vừa đan xong thì ánh mây hồng đã bừng lên ở phía Đông.

Nghĩ sao làm vậy, sáng hôm ấy, Tô Văn xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Lại còn tha thiết xin được đi ngay. Quân lệnh ban xuống, đúng với ý nguyện của chàng: ngay tối hôm nay lên đường. Đến lúc ấy, Tô Văn mới nói cùng Tô Thị:

- Ta đã đăng lính rồi, nàng ạ. Ngay tối hôm nay phải lên đường. Đi trấn ải chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về, cũng có khi còn lâu hơn. Nàng ở nhà nuôi con. Còn về phần mình, nàng cứ tự định liệu, nếu nhỡ ra…

Tô Thị nghe chồng nói như nghe sét đánh ngang tai. Đến khi nàng định tâm tĩnh trí thì tiếng tù và thu quân chỉ còn văng vẳng đằng xa. Tô Văn đã ra đi.

Sáu năm sau.

Cảnh nhà Tô Thị đã neo người lại càng thêm đơn chiếc khi nàng quyết định đóng cửa hàng nem cho bớt người qua lại. Hàng ngày, nàng làm nem đem giao cho các cửa hàng khác rồi về nhà trông con. Đứa con nhỏ của nàng lên tám tuổi mà vẫn chẳng biết nói biết đi. Nàng chờ Tô Văn về đan cho con những chiếc lồng dế mới. Nàng hy vọng rằng đến ngày ấy, con nàng sẽ biết nói biết đi, cũng như nàng đến ngày ấy sẽ biết rằng trên đời này còn có mặt trời. Nhưng ngày ấy mãi mà chưa đến. Cho tới một hôm…

Một người phụ nữ phốp pháp, quyền uy hiện ra trước ngưỡng cửa nhà Tô Thị như một điềm báo gở. Bà ta tự kéo ghế ngồi, tay vuốt nước cốt trầu bên mép tay quạt phành phạch chiếc quạt giấy bé tí.

- Xem nào xem nào. Nàng tự làm khổ nàng thôi Thị ơi! Người ta ba năm một khóa lính, đằng này đã sáu năm rồi. Người chết cũng chết rồi, người không về, cũng không về đâu nữa mà trông.

- Cháu lạy trời lạy Phật cho cháu được chờ chàng. Cháu chỉ xin được chờ chàng thôi. Còn như kiếp này cháu mắc tội, không được gặp lại chồng cháu, thì cháu cũng xin làm một kiếp góa nuôi con…

- Nói gì mà dở người! Cứ thế rồi làm khổ người khác. Thị làm khổ cả mú Lìn này Thị có biết không? Có ai như mú, cả đời làm mai làm mối, mười người thành cả mười, trăm người thành cả trăm, thế mà rồi đến lượt quan phó trấn cậy nhờ lại không làm được thì còn ra cái nước non gì.

- Cháu… cháu không thể làm lẽ quan phó trấn.

- Mú chắp tay xin nàng! Quan phó trấn hẹn ba ngày nữa mà không có tin thì cả nhà mú chỉ còn nước đội nón mà đi biệt xứ. Mà ba ngày nữa, chứ ba năm, ba mươi năm nữa chồng nàng chắc chắn cũng chưa về. Thì thôi đằng nào cũng vậy, mú nhận lễ với người ta rồi, đến ngày đẹp cuối tháng này, người của quan phó trấn sẽ đến đón nàng về dinh, nàng chẳng cần định liệu. Có trách thì cứ trách ông trời. Mà đến lúc thành bà phó trấn cao sang quyền quý thì cũng cứ cảm ơn ông trời là được, chứ già này chẳng thèm kể công đâu.

Khách đi rồi, Nàng Tô gần như sức cùng lực kiệt. Trời ơi! Thế là hết! Đến cả chờ chàng thôi mà tâm nguyện ấy của ta, ông trời cũng không thấu ư? Nàng đưa mắt nhìn trời. Bầu trời tối đen như mực bỗng lóe lên một tia chớp sáng. Nàng Tô ôm con nhằm thẳng hướng Tam Thanh Tự mà bước tới. Dừng chân trước tam quan, nàng khẩn cầu:

- Con Nam mô a di đà Phật, con xin lấy tâm nguyện con làm hương đăng, lấy cả cuộc đời con làm sính lễ cầu xin các ngài cho con kiếp này vẹn một chữ Tòng. Dẫu có phải hóa thân thành đá, con cúi lạy các ngài cho con được hóa đá chờ chồng, chàng đi trấn ải chưa về… Với con, được mãi mãi chờ chàng chính là hạnh phúc…

Hôm ấy trời nổi cơn giông. Gió như roi quật. Mưa như trút nước. Chớp lòe khắp núi. Sáng sớm hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời tỏa sáng. Trên một mỏm đá cao vót ngay bên Tam Thanh Tự, nàng Tô đã hóa đá tự bao giờ. Dân làng nhìn thấy nàng Tô hóa đá trên núi cao thì đều quỳ gối cầu xin rằng đó là điềm lành. Giữa lúc ấy, có một bóng người vội chạy đến phủ quan phó trấn khấu đầu tạ tội: “Con khấu lạy ngài tha tội. Vì để đẹp lòng quan phó trấn, con đã trót ép duyên nàng. Giờ thì Tô Thị đã hóa đá rồi”.

Chuyện xảy ra tiếp theo ở phủ quan phó trấn chẳng ai rõ thực hư thế nào. Dân làng chỉ còn nhớ rằng sau cơn mưa to từ đêm hôm trước, đêm hôm ấy là hôm rằm, trăng sáng lạ thường. Ánh trăng mồn một soi tỏ cảnh vật. Dưới chân tượng đá nàng Tô, quan phó trấn cũng ngồi lặng yên như hóa đá, chén rượu cầm trong tay sóng sánh ánh trăng đêm. Rồi từ từ, ông đưa chén rượu lên ngang mày mà rằng: “Tô Thị nàng ơi, nàng là phận gái như hạt mưa sa mà tấm lòng trọng nghĩa phu thê như biển cả. Ta với với nàng kiếp này dẫu không nên duyên chồng vợ thì cũng xin kết nghĩa tri âm. Hẹn nghìn năm, vạn năm sau xin được kết thành đôi loan phượng. Nếu nàng ưng thuận, hãy cùng ta uống cạn chén rượu này”. Trên trời cao, bỗng rơi xuống một giọt mưa trúng ngay miệng chén. Quan phó trấn uống một mạch cạn ly rượu mà tưởng như vừa nhìn thấy khuôn mặt đá thoáng một nụ cười viên mãn.

… Vào những đêm trăng sáng lạ thường, thảng hoặc lại nhìn thấy có bóng người ngồi uống rượu cùng nàng Tô trên đỉnh núi. Có thể đó là những tri âm tri kỷ của nàng qua nghìn năm vạn năm. Bởi dẫu tượng đá có trơ gan cùng tuế nguyệt thì nỗi đau của nàng lắm người dương thế vẫn đa mang.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Nàng Tô<br><i>Truyện ngắn của Vi Thị Thu Đạm </i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO