Thế giới cần thêm hơn 1 triệu nhân sự bán dẫn
Tại hội nghị "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp bán dẫn" do Văn phòng Chính phủ phối hợp Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức chiều 24.4, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, ước tính nhu cầu thế giới sẽ cần tăng thêm hơn 1 triệu nhân sự vào năm 2030 cho tất cả các khâu thiết kế, sản xuất, lắp ráp, đóng gói và kiểm thử chip.
“Với nguồn cung lao động dồi dào và lực lượng lao động có chất lượng, có thể khẳng định nguồn nhân lực chính là lợi thế lớn nhất và nổi bật nhất của Việt Nam so với các quốc gia, nền kinh tế khác trên thế giới. Vì vậy, việc tập trung đầu tư, đào tạo, đào tạo lại cho lực lượng lao động để trong thời gian sớm nhất có thể gia nhập vào thị trường lao động là một hướng đi chiến lược, là yếu tố quyết định để có thể tận dụng cơ hội hợp tác đầu tư, tiếp cận, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Từ cuối năm 2023, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng, trình Thủ tướng ban hành Đề án Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, trong quá trình xây dựng Đề án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp cận theo phương diện đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ tất cả các công đoạn của chuỗi giá trị ngành công nghiệp bán dẫn. Sản phẩm của chương trình đào tạo là đội ngũ kỹ sư chất lượng cao tốt nghiệp đại học (không bao gồm hệ cao đẳng) từ các ngành gần, ngành phù hợp, ngành đúng với công nghiệp bán dẫn.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, từ năm 2001 đến năm 2021, ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu đã tăng 14% mỗi năm, đạt doanh thu gần 600 tỷ USD tính đến năm 2023. Ngành bán dẫn được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đạt đến 1.000 tỷ USD vào năm 2030.
Hiện đã có hơn 50 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp bán dẫn hoạt động tại Việt Nam như Intel, Amkor, Hana Micron (đóng gói, kiểm thử); Ampere, Marvell, Cadence, Renesas, Synopsys, Qorvo (thiết kế); Lam Research, Coherent (sản xuất thiết bị)...
Về mục tiêu, Đề án xác định đến năm 2030, kỹ sư Việt Nam tham gia sâu vào quy trình thiết kế, công đoạn đóng gói và kiểm thử, làm chủ được một phần công nghệ đóng gói và kiểm thử; từng bước nắm bắt được công nghệ trong công đoạn sản xuất. Đào tạo được 50.000 kỹ sư phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn trong tất cả các công đoạn của chuỗi giá trị; trong đó có 15.000 kỹ sư thiết kế vi mạch bán dẫn và 35.000 kỹ sư trong lĩnh vực khác của ngành công nghiệp bán dẫn; tối thiểu 5.000 kỹ sư trong số đó có chuyên môn sâu về trí tuệ nhân tạo. Đào tạo được khoảng 1.300 giảng viên có trình độ quốc tế.
“Căn cứ kết quả khảo sát năng lực đào tạo của các trường đại học lớn tham gia đào tạo các ngành gần, ngành phù hợp, ngành đúng để chuyển đổi sang ngành công nghiệp bán dẫn như Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học FPT…, mỗi trường đang có 3.000 - 6.000 sinh viên ngành phù hợp tốt nghiệp hàng năm, thì con số 50.000 kỹ sư đến năm 2030 là hoàn toàn khả thi, thậm chí có thể đào tạo được nhiều hơn”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Ngoài ra, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và phát triển ngành công nghiệp bán dẫn để phục vụ phát triển AI ngày càng phổ biến và xu thế chung không thể đảo ngược với sự tham gia của các tập đoàn lớn như NVIDIA, Google, Meta, Apple, Microsoft… Vì vậy, trong số 50.000 kỹ sư cần có ít nhất 5.000 nhân sự có trình độ chuyên môn sâu về AI.
Cần có cơ chế, chính sách ưu đãi, đặc thù
PGS.TS. Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, cho biết, hiện nay, mỗi năm trường tuyển sinh trên dưới 6.000 sinh viên nhóm ngành liên quan đến công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, điện tử viễn thông… Với ngành bán dẫn, trường đặt mục tiêu đến năm 2030 đào tạo được 1.800 kỹ sư.
Theo PGS.TS. Vũ Hải Quân, quá trình đào tạo nhân lực bán dẫn gặp nhiều thách thức. Về nguồn tuyển, các em sinh viên vẫn còn mơ hồ về ngành thiết kế vi mạch nói riêng và công nghệ bán dẫn. Về đội ngũ giảng dạy, ngay tại Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, số lượng tiến sĩ tốt nghiệp chuyên ngành bán dẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngoài ra, chương trình đào tạo mới và thay đổi liên tục; nơi thực tập cho sinh viên cũng là một khó khăn trong khi ngành này phải thực tập, thực hành mới làm việc được.
“Tôi mong muốn thông qua Đề án này, chúng ta có được những cơ chế, chính sách vượt trội để có thể tham gia đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao”, PGS.TS. Vũ Hải Quân nói. Ví dụ cơ chế đột phá về đào tạo giáo viên; theo quy định hiện nay, phải có đủ số lượng tiến sĩ, giáo sư theo một số lượng nhất định mới được mở ngành vi mạch và tính “quota” đào tạo trên số lượng giảng viên mình có. Nhưng đây là ngành học hoàn toàn mới, số lượng tiến sĩ đếm trên đầu ngón tay nên không thể mở ngành, nếu có mở ngành thì cũng chỉ tuyển sinh ở quy mô rất nhỏ.
Đại học Quốc gia Hà Nội hiện cung cấp khoảng hơn 3.000 sinh viên mỗi năm trong các lĩnh vực liên quan đến lĩnh vực công nghiệp bán dẫn và cũng có hệ thống phòng thí nghiệm. Tuy nhiên những phòng thí nghiệm này chưa tích hợp được công đoạn của công nghiệp bán dẫn, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội PGS.TS. Phạm Bảo Sơn cho biết.
Hệ thống trang thiết bị, phòng thí nghiệm đóng vai trò rất quan trọng trong đào tạo nhân lực ngành bán dẫn. Theo ông Phùng Việt Thắng, Giám đốc Quốc gia Intel tại Việt Nam, phòng thí nghiệm có thể là quy mô quốc gia, cũng có thể quy mô trường đại học. “Quan trọng là cơ chế sử dụng phòng thí nghiệm một cách có hiệu quả. Điều này liên quan đến hợp tác đầu tư công - tư cùng sự hỗ trợ của các doanh nghiệp hàng đầu quốc gia. Đây là bài toán chung cần giải”, ông Thắng nói.
Một điểm chung là các trường đều nhấn mạnh việc phải thu hút các sinh viên giỏi tham gia trong lĩnh vực này. Thu hút sinh viên giỏi là đầu vào, vậy còn đầu ra? Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội PGS.TS. Huỳnh Quyết Thắng nêu vấn đề. Theo ông, cần có những thiết kế, sản phẩm của sinh viên trong các trung tâm đổi mới sáng tạo để những sản phẩm mới có thể phát triển thành những hệ thống thông minh, những hạ tầng thông minh, từ đó có thể hình thành các doanh nghiệp. Phát triển công nghiệp bán dẫn là chủ chốt, mũi nhọn, nhưng kèm theo đó là cả một hệ thống các ngành công nghiệp phụ trợ đi cùng, các ngành này sẽ từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp này sẽ xuất phát từ đổi mới sáng tạo của các em sinh viên. Đại học Bách khoa Hà Nội đang tiếp cận theo hướng này.
Kết luận hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh quan điểm coi đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp bán dẫn là đột phá của đột phá trong đào tạo nhân lực chất lượng cao. Về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng yêu cầu hoàn thiện thể chế cho đào tạo nhân lực bán dẫn với cơ chế, chính sách ưu đãi, đặc thù; đầu tư cho hạ tầng phục vụ đào tạo nhân lực bán dẫn, gồm cơ sở đào tạo, nhà trường, phòng thí nghiệm, nơi sản xuất…; đào tạo đội ngũ giáo viên, giảng viên, xây dựng chương trình, giáo trình phù hợp; phương thức đào tạo cả tiệm cận và đột phá, cả trước mắt và lâu dài; huy động, đa dạng hóa nguồn lực của Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp…