Một đời (Phần một)
Truyện ngắn của Lê Minh Khuê

02/06/2008 00:00

      Bây giờ người ta thấy bà rờ rẫm đi trong vườn. Vườn vắng tay người chăm sóc nên cây cối cằn cỗi. Chỉ còn mấy cây chè cổ thụ im lìm đương đầu với sương gió. Lá chè càng già càng đậm nước. Bà cụ hái chè bằng những ngón tay thoăn thoắt như thời con gái. Lá chè từng nắm được bỏ vào cái túi vải đeo bên sườn.
      Tập đứng ở hiên nhà nhìn mẹ già. Thấy mẹ hái chè, anh yên tâm. Như vậy cụ đã hoàn toàn thư thái sau ngày đưa được hài cốt anh Thắng trở về. Mắt mẹ đã lòa, vì khóc nhiều. Vì mất ngủ. Vì bồn chồn đau xót. “Mấy đứa đi cùng thằng Thắng đã về cả. Xã xây mộ rồi!”.
      “Mẹ cứ để thư thư cho chúng con có thời gian!”.
      “Mẹ không biết lý do gì hết. Cứ đưa được nó về cho mẹ”.
      Tập phát cáu: “Mẹ cứ làm như chúng con không cố gắng”.
      Bà cụ òa khóc. Khóc nhiều, thức đêm nhiều, mắt mờ dần. Đưa lên bệnh viện thành phố, các bác sỹ mổ hai lần. Về nhà bà cụ vẫn khóc đêm đêm. Có lúc bà ra vườn đứng nói chuyện với cây chè trước kia Thắng trồng: “Bao giờ thì về, hả con?”.
      Mắt bà mổ lần thứ ba thì tìm được hài cốt Thắng. Bà không còn nhìn rõ. Bà ngồi xuống ôm thân thể Thắng bọc trong lá cờ, nhẹ nhàng, bà như lay gọi: “Thắng đây hả con? Thôi được rồi. Về với mẹ!”.
      Bà rạng rỡ cười nói. Đi hái chè cho ông lão mời bạn cựu binh quanh xóm. “Thằng Thắng nó về với tôi rồi!”. Bà lần mò ra chợ mua rau, mua mắm giúp đứa con dâu vợ thằng út. Con dâu đi làm trên phố, tối về leo lên giường mẹ chồng, cho hai chân vào lòng để mẹ ủ ấm. “Con đọc Kiều cho mẹ nghe nào”. Đọc được vài câu, nó buông sách ngủ liền. Bà vuốt tóc đứa con dâu bé bỏng, mồ côi cha mẹ, về làm dâu xem bố mẹ chồng như cha mẹ ruột. Chồng nó đi học tận Sài Gòn, tết mới về. Nhà bên kia vợ chồng thằng Tập đang quát tháo thằng con nhỏ nghịch như giặc, hôm nào cũng thượng cả bùn vào chăn. Ông lão đi đánh cờ với mấy bạn già.
      Trời mưa nhè nhẹ. Căn nhà ấm như có lò sưởi, vì giấc ngủ đứa con dâu sâu thẳm. Thằng Thắng đã về đây. Nằm ngoài nghĩa trang của xã. Bà thở một hơi dài như trút tất cả nhọc nhằn về phía sau. Mọi chuyện thế là ổn rồi Thắng ạ!

*

      Ông Tú vốn quê gốc ở vùng La Khê. Cụ tổ ba đời của ông có công với triều đình, là quốc sư, thầy dạy ấu chúa. Khi cụ về già, triều đình phái cụ vào vùng núi Nưa xứ Thanh khai khẩn đất đai, lập ấp gom dân. Ông Tú sinh ra ở vùng núi Nưa, ra đất Thăng Long học rồi xin về làng bốc thuốc dạy học. Một lần ra Kinh Bắc thăm thầy học cũ, là ông Nghè Me nổi tiếng hay chữ một vùng, ông Tú được thầy cho về thăm nhà. Mến đức độ của người học trò cũ, ông Nghè Me gọi con gái đến chào ông Tú. Ông Tú thấy quyến luyến ngay cái áo tứ thân của con gái ông Nghè làng Me. Biết là theo ông Tú về Thanh để làm lẽ, con gái ông Nghè làng Me cũng chẳng quản gì. Chẳng quản cả đường xa, phong thổ khác lạ. Về Thanh, bà vẫn mặc cái váy dài chấm gót của xứ Kinh Bắc, chẳng lạ lùng nhiều giữa những người đàn bà xứ Thanh nóng cũng như lạnh, váy ngắn trên đầu gối. Khi sinh cô Tuy, con gái thứ hai, bà Tú Thanh mới thấy mình hoàn toàn là người của vùng núi Nưa. Bà lo quản cả gia đình lớn để ông Tú chuyên tâm dạy học, bốc thuốc. Cô Tuy xinh đẹp như mẹ, hiền lành như cục đất, chỉ được học dăm ba chữ trong bếp. Con gái không được đi học. Nếp nhà nho ở gia đình ông Tú nặng nề hơn ở đâu hết. Cô Tuy thay hết răng sữa, bà Tú bắt con gái nhuộm răng. Khi cô Tuy mười ba tuổi, ông Tú Thanh nhớ lời hứa với người họ xa ở La Khê cách đây mười năm, là sẽ cho con gái về làm bạn với con trai nhà ấy, khi cô đến tuổi cập kê. Cô Tuy òa lên khóc khi nghe tin mình phải đi lấy chồng. Mười ba tuổi ăn chưa no, lo chưa đến, bà Tú đã tập cho con gái đội khăn, kéo được đuôi khăn qua vành khăn ở mang tai. Đoàn rước dâu đi xe lửa từ Hà Nội vào Thanh. Chú rể bé tý mặc áo the, khăn xếp ngượng ngùng bước lên thềm làm lễ gia tiên.
      Dạo ấy xứ Bắc rét cắt da. Cô Tuy run rẩy đưa bàn tay bé nhỏ cho người anh ruột nắm. Cô muốn nép vào anh, muốn anh đưa về với mẹ. Đêm đầu tiên ở nhà chồng, cô ngủ chung giường với người chị chồng, tấm tức khóc suốt đêm. Chú rể mười lăm tuổi, xanh xao, siêu thuốc sôi trên hỏa lò suốt ngày đêm. Cô Tuy rụt rè bưng thuốc đến cho chồng: “Thưa anh...!”. Bà Tú Thanh đã dặn cô xưng hô lễ phép với chồng... Bà mẹ chồng có nghề buôn vải ở chợ Hà Đông, khi ở chợ về thường mua cho cô con dâu tấm mía, gói bỏng. Bà thương cả hai đứa, con trai ốm yếu quanh năm, con dâu còn bé. Dù sao thì cũng là người trong họ, không phải là con dâu thì cũng hàng cháu chắt. Bà cho cô Tuy ra chợ giúp việc. Chữ nghĩa của cô chỉ đủ ghi chép biên nhận hàng mua vào, hàng bán ra. Năm đó hàng Ấn Độ, hàng Ba Tư được người ta ưa chuộng, lãi hơn hàng nội. Bà sắm cho con dâu cái vòng cổ, đôi khuyên. Đã quen với nếp nhà, cô Tuy bắt đầu phổng phao. Hai má đỏ hồng và cánh tay trắng trẻo ưa nhìn. Cô lớn lên bao nhiêu, chú bé chồng cô càng ốm yếu. Chú có bệnh lao phổi, lấy vợ, không được ngủ chung giường. Bà mẹ chồng giữ lời hứa với bà thông gia, đợi cô Tuy đến mười bảy tuổi mới cho động phòng. Bà cũng giữ cả cho đứa con trai bệnh tật của mình. Năm 16 tuổi, bà cho cô Tuy gánh hàng riêng để gây vốn, và để quen dần việc kinh doanh độc lập. Cô Tuy thật thà, bán hàng có duyên, lại xinh xắn ưa nhìn, gánh hàng của cô lãi mẹ đẻ lãi con. Cứ đà này chẳng mấy chốc cô sẽ có cửa hiệu. Nhưng cuối năm ấy, người chồng của cô trở bệnh. Bao nhiêu thuốc thang vào người như đổ xuống đất. Cậu ho ra máu, vật vã nhìn người con gái là vợ mình bấy lâu mà chưa một lần cầm tay. “Thôi, tôi xin mình tha tội. Tôi làm khổ mình! Số tôi không bền”. Cô Tuy đau thắt tim khi nhìn hình hài người con trai đang teo tóp lại. Cô giàn dụa nước mắt: “Thưa anh...”.
      Chồng chết, cô Tuy tròn mười sáu tuổi, mặc áo xô nằm lăn lóc trước quan tài, theo phong tục thời ấy. Cô nằm lăn từng vòng, sợ hãi khi thấy bóng đen chiếc quan tài đè nặng lên mình... Ít lâu sau bà mẹ chồng bảo: “Thôi, chợ búa thì phải đi, con!”. Người ta thấy cô cặm cụi buôn bán. Cửa hàng cô tấp nập khách trên Hà Nội vào mua hàng. Chiến tranh làm mọi người thấp thỏm. Hai mẹ con cô Tuy dồn tiền mua vàng để dành.
      Đầu năm Ất Dậu, bà Tú Thanh ra Hà đông gặp bà thông gia: “Ông bà cho phép cháu về bên nhà ít lâu...”. Cô Tuy đã đoạn tang chồng, đang ở tuổi rực rỡ thanh xuân, cô xinh đẹp như bông hoa mới nở. Bà mẹ chồng nhìn cô mà xót xa cho đứa con trai xấu số. Là con dâu nhưng cũng là cháu họ xa, cô Tuy được bà thương như con đẻ. Bà đồng ý cho cô về Thanh phụng dưỡng cha mẹ, lâu lâu lại ra, lâu lâu lại về. Thế cũng tiện. Như được sổ lồng, cô Tuy mặc áo tứ thân, thon thả và óng ả đi bên mẹ ra ga. Những bước chân cô líu ríu khi trông xa xa thấy vườn chè bát ngát của nhà cha mẹ. Hoa chè thơm kín đáo như níu lấy cô. Ông Tú Thanh ngồi trong nhà làm thuốc, trông thấy đứa con gái mà thương cho nó vất vả bấy lâu. Nhưng tính ông nghiêm. Ông không cho con gái đi học trường, không cho để răng trắng và ông cũng như là không xót thương khi bắt con đi làm dâu lúc mười ba tuổi. Vậy nên ngay ngày hôm sau ông đã bắt con lo chuyện làm ăn.
      Nhà có dăm mẫu ruộng phát canh, có nghề chăn tằm dệt cửi, đã có người làm. Cô Tuy thích chạy chợ. Cô gánh hàng lên chợ bán vải. Chợ họp sáng. Buổi chiều cô cùng người em hái chè để có lái từ tỉnh lên đưa chè xuống tỉnh. Hai chị em cùng những người thợ hái chè thì thầm nói chuyện, tiếng ngắt lá chè cùng tiếng trò chuyện rúc rích của họ tạo thành âm thanh dễ chịu khi chiều về. Cách mạng, rồi kháng chiến nổ ra, vườn chè của họ vẫn như là êm đềm. Nhưng người ta bắt đầu đào hào, đào hầm trú ẩn trong vườn. Chợ huyện họp đêm. Ban ngày cô Tuy mải miết giúp mẹ quản lý thợ cấy, thợ gặt, quản lý mấy khung cửi dệt vải dưới nhà ngang, và hái chè.
      Đầu năm 1947, một đoàn các cháu, các dì, các cô từ Hà Nội tản cư về xứ Thanh, vùng tự do. Bà Giáo, con gái bà vợ trước của ông Tú Thanh, chị em cùng cha khác mẹ với cô Tuy, dắt một đàn con nhỏ bảy đứa, cùng ba người ăn ở trong nhà về nương nhờ ông bà Tú Thanh. Nhà của bà Giáo ở thị xã đã bị phá đi, hưởng ứng chủ trương tiêu thổ kháng chiến. Dãy nhà ngang rộng bát ngát vẫn dùng để khung dệt vải và chăn tằm, phải dẹp hết để biến thành khu vực cho người ở. Bà Giáo và đàn con của bà ở hết dãy nhà này. Còn đám trẻ con từ Hà Nội gửi vào phải ở nhà trên. Cô Tuy phút chốc phải làm quản gia cho cả đại gia đình. Kháng chiến dài lâu. Người tản cư chắc còn lâu mới về chốn cũ nên mọi chuyện phải sắp xếp đâu vào đấy. Một năm đầu, đám trẻ con tản cư ở Hà Nội vào lần lượt được đón đi. Bảy đứa con của bà Giáo được cô Tuy sắp xếp cho đi học trường của kháng chiến. Bà Giáo lo phần săn sóc bầy con nhưng một đồng cũng không có. Ông Giáo đã đi tham gia kháng chiến, lương lậu thời ấy đâu có gì, nên trăm sự phải nhờ. Và cô Tuy, với đức hy sinh tự nhiên, như trời sinh cô ra để sống cho người khác, xắn tay áo lên để lo cho cha mẹ, cho em gái, cho bà Giáo và mười miệng ăn của nhà bà. Gần mười năm trời, hơn một trăm lạng vàng cô dành dụm được khi buôn bán ở Hà Đông, đã phải đổi ra vải, ra gạo, ra thịt cá mắm muối... cho một đại gia đình lúc nào cũng gần hai mươi người ăn. Nhà bà Giáo chiếm nửa số nhân khẩu ấy, một mình tay cô Tuy lo buôn bán, lo bù chì để những cậu ấm cô chiêu của nhà bà Giáo lúc nào cũng phải có cá có thịt. Cô lo cho từ cái bút chì, từ cục tẩy, từng viên thuốc ho thuốc sốt cho đám trẻ con bà Giáo.
      Nhưng những năm đó lại rộn rã vui tươi. Vùng tự do, ngoài những trận đánh phá của máy bay Pháp ra, thì chiến sự ở xa lắm. Không như những vùng tề, ở đây trẻ con sinh ra được làm giấy khai sinh có dấu ủy ban kháng chiến. Đêm đêm các nông hội đoàn thể họp. Tiếng trống ếch rầm rĩ, đuốc cháy như đình liệu. Ông bà Tú Thanh hiến hết vàng bạc cho kháng chiến, lại mở rộng cửa đón người kháng chiến. Nhà rộng, lại cao ráo sáng sủa, đoàn văn hóa khu Bốn tập kết số đông ở nhà ông Tú. Những anh lính tú tài mặc trấn thủ, gảy đàn măngđôlin hát “Suối mơ” rồi “Đây gió đây trong rừng...”. Họ vui tính, lễ phép. Họ gọi cô Tuy là chị, là cô. Hai má cô hồng rực lên, hàm răng đen như hạt na đều tăm tắp. Cô chạy chợ, hái chè và bắt đầu đi làm đồng... để có tiền lo cho đám cháu đông đúc con người chị cùng cha khác mẹ. Những thành viên ở đoàn văn hóa khu Bốn, sau này có người lên Điện Biên, có người vào thành rồi di cư vào Nam, có người ở lại tỉnh. Những người lên Việt Bắc sau này trở lại Hà Nội... Tất cả họ đều là những người có tiếng tăm, có tài năng. Cô Tuy biết hết và nhớ tính nết từng người. Họ hát những bài ẩm ướt nhưng mắt họ sáng rực, miệng họ tươi cười hạnh phúc. Khi những người lính văn nghệ tản đi các nơi, một đoàn cán bộ ở chiến khu Bình Trị Thiên tới nhà ông Tú. Một anh cán bộ cấp tiểu đoàn, bị thương nên được chuyển sang dân chính, nhìn cô Tuy nói giọng Quảng Trị: “Tóc cô dài, đẹp chi lạ!”. Cuối năm, ông bà Tú Thanh đánh tiếng ra La Khê, xin phép cho con gái tái giá. Nhà ở La Khê bây giờ là vùng tề, đi lại khó khăn nhưng mẹ chồng cũ của cô Tuy cũng đánh tiếng vào Thanh, cho phép con dâu tái giá. Đám cưới của cô là đám cưới kháng chiến - Anh Thạch, anh cán bộ người Quảng Trị ấy, làm rể ông bà Tú Thanh như được trở về nhà. Quê anh lúc này khói lửa tràn lan, cha mẹ không biết còn hay mất.
      Anh người cao ráo, có dáng nam nhi được ông bà Tú chấm là người trung hậu. Đám cưới kháng chiến chỉ có nước chè xanh, khoai lang luộc từng rổ, thuốc lá... và hò hát. Cô Tuy mặc chiếc áo dài từ thời buôn bán ở Hà Đông, đứng bên anh cán bộ mặc binh phục. Hạnh phúc mở ra cho cuộc đời cô những hứa hẹn. Cưới xong ít lâu, anh Thạch theo đoàn cán bộ đi công tác. Cô Tuy sinh đứa con trai đầu tiên đặt tên là Tập và vẫn lần hồi buôn bán làm lụng nuôi cả bầy con của người chị gái, nuôi con nhỏ, nuôi cha mẹ già.
      Kháng chiến thành công. Bà Giáo đưa lũ con về thị xã. Cô Tuy giờ đây đã trắng tay nhưng xúc động nhận lời cảm ơn của người chị: “Chị đừng phân vân gì. Em lo cho các cháu cũng như người khác phải lo những việc lớn hơn. Kháng chiến thành công là mừng rồi!”... Cô Tuy không đón chờ những biến động lớn sau đó. Nhưng nó vẫn đến như nó phải đến. Đêm miền Trung oi bức, văng vẳng trong gió tiếng tù và, tiếng trống và tiếng reo hò của rất đông người đang kéo đi các ngả trong làng. Những ngọn đuốc kết vào nhau, thành một dòng sông lửa ngoằn ngoèo như gang thép chảy, gây nên nỗi lo âu trong trái tim thanh sạch chưa bao giờ biết đến sự độc ác của cô. Gia đình bà Tú Thanh giờ vắng heo. Những người ở làm công đã về nhà hết. Duy nhất có người tá điều già vẫn hầu hạ điếu đóm ông Tú cẩn trọng như mọi lão bộc trung thành, là ở lại. Ông rón rén đi từ ban công xuống sân, dùng chổi rơm mềm vun lá rụng vào góc để khỏi gây tiếng động. Ông không dùng cây chổi tre dài. Ông móm mém bảo cô Tuy: Cô cất áo dài vòng xuyến đi... Và đêm đêm ông cùng gia đình ông Tú ngồi thầm trong bóng tối ăn những bữa cơm độn khoai, rất nhiều khoai.
      Cô còn nhớ một buổi sáng, người ta khiêng ông Tú Thanh từ chỗ nào đó về nhà. Bộ râu rất đẹp của ông Tú Thanh trắng xóa, dài tới rốn, giờ bị xơ xác và cắt cụt. Ông Tú Thanh cầm tay người con gái: Thầy thương con... Suốt đời nhà ta không làm điều gì ác, thầy nghĩ thầy chả có tội.
      Thầy ơi, con cũng nghĩ như thế.
      Ông Tú nằm im lặng. Cô Tuy xách giỏ ra vườn hái nắm chè cho cha uống. Khi cô quay lại, cô nhìn thấy hai chân người cha đung đưa trước mắt cô. Cô gọi người lão bộc, bình tĩnh ôm lấy thân thể còn ấm nóng của cha. Cái vết bầm của sợi dây trên cổ ông Tú mãi mãi như cái xích cứa vào tim cô. Hai ngày sau khi đưa tang ông Tú, đám tang cũng âm thầm như số phận cô, cô mới nhớ ra là cha đã chết, cô khóc một mình trong buồng, cắn răng cắn lợi. Khóc để bà Tú đang ốm không dậy nổi sau cái chết của chồng, khỏi nghe thấy. Một tuần sau, bà Tú cũng im lặng ngủ giấc dài. Chẳng trăng trối lại được gì. Dường như cái chết là giải thoát duy nhất của bà, và bà chẳng buồn gửi lại nơi trần thế một chút ý nguyện gì nữa.

   >>Một đời (Phần cuối)

    Nổi bật
        Mới nhất
        Một đời (Phần một)<br><i>Truyện ngắn của Lê Minh Khuê</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO