Mối tình của ông già lười (Phần cuối)
Truyện ngắn của Từ Khôi

23/09/2010 00:00

>> Mối tình của ông già lười (Phần 1)

05-Moi-tinh-26610-300.jpg

(Tiếp theo và hết)

Mấy bữa trước, ta trở về Huê Cầu, người dân nói cô ở vậy đến già và đi tu ở tận bên Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh. Ta không thể lên đó được vì còn phải về kinh thăm bệnh cho Chúa. Không ngờ giữa chốn kinh đô phồn hoa này lại có cơ duyên gặp gỡ.

Khẽ dụi mắt, Lãn Ông bùi ngùi:

- Ta muốn nhờ anh tới chùa Liên Tôn, thưa với sư Đàm Liên rằng ta rất ân hận về việc có trước mà không có sau với bà ấy. Nếu bà ấy không chê, ta muốn mời bà về Hương Sơn để phụng dưỡng. Trong khu vườn thâm u của ta vốn sẵn có ngôi miếu thờ Phật, bà có thể an hưởng tuổi già. Hỏi xem bà có bằng lòng hay không. Các việc về sau ta sẽ tính.

Sớm hôm sau, anh Tài đến chùa Liên Tôn. Nhưng các bà sư và ni cô đã đi khuyến hóa từ tinh mơ. Anh Tài kiên nhẫn đợi. Đến ngang chiều, các sư bà mới trở về. Anh Tài đem chuyện thưa riêng với sư Đàm Liên. Sư nghe xong, không nén nổi sụt sùi, đáp:

- Anh về thưa lại với cậu Chiêu Bảy, à quan nhân, vì từ trước tôi quen gọi cậu Chiêu Bảy con quan Thị lang Bộ Công. Quan nhân có lòng, nhưng kiếp này tôi không gặp được chồng phải long đong khổ não. âu cũng là số phận, đâu có dám oán thán gì ai. Tôi nay không còn thân thích, phải trông nom phần mộ tổ tiên, đâu dám rời bỏ mà cầu lấy miếng ăn, kiếm chút nhàn tuổi già. Anh về thưa lại với quan nhân: tôi dù chưa được đội ơn thừa của quan nhân nhưng vâng nhận tấm lòng của quan nhân cũng đủ để an ủi nỗi niềm linh lạc của tôi rồi.

Đêm ấy, trăng xuân có phần lạnh hơn. Lãn Ông ngồi đắng lặng một mình bên bầu rượu, tay khư khư chiếc chén hạt mít. Thỉnh thoảng ông lại đưa lên môi nhấm nháp. Ông nhấc bút, lăn mực và viết. Viết xong, ông cầm vuông giấy dó lên và nhìn chăm chú khá lâu rồi mới đặt xuống bàn. Anh Tài lại đến bên bàn nhắc ông đi nghỉ sớm để mai còn vào phủ hầu Chúa và Thế tử Trịnh Cán. Lãn Ông cầm lấy vuông giấy, đưa cho Tài đọc. Đó là một bài thơ. Thơ rằng: Vô tâm sự xuất ngộ nhân đa/ Kim nhật tương khan khổ tự ta/ Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ/ Song mâu xuân tận hiện hình hoa/ Thử sinh nguyện tác càn huynh đệ/ Tái thế ưng đồ tốn thất gia/ Ngã bất phụ nhân nhân phụ ngã/ Túng thiên như thử nại chi ha!

Nghĩa là:

Vô tâm nên nỗi lỡ người ta
Hôm nay nhìn nhau luống ngậm ngùi
Tiếng cười mừng gặp mặt còn ngân nước mắt
Nơi góc sâu đôi mắt già (gần lòa) còn in bóng người con gái năm xưa.
Đời nay xin kết nghĩa làm anh em
Nguyện rằng kiếp sau sẽ kết làm gia thất
Ta không phụ người người nỡ phụ
Đành thôi như thế biết sao mà!

Lẩm nhẩm đọc đi đọc lại mấy lần, anh Tài trao lại bài thơ cho Lãn Ông không dám bình luận gì. Nhưng khi vào giường nằm, miệng anh lại lẩm nhẩm:

- Nhất tiếu tình đa lưu lãnh lệ/ Song mâu xuân tận hiện hình hoa. Một câu thơ xuất thần. Thầy ta đa cảm thật. Mà sư Đàm Liên kể cũng nhất kiến chung tình.

Kể từ sau đêm làm xong bài thơ, Lãn Ông thường qua lại chùa Liên Tôn thăm sư Đàm Liên. Ban đầu sư Đàm Liên còn ngượng ngập nhưng sau cũng vui lòng đón tiếp và cũng thi thoảng tới nhà trọ thăm Lãn Ông. Họ coi nhau như anh em một nhà.

Hôm ấy, đương khi vui, Lãn Ông đọc cho sư Đàm Liên nghe bài thơ vừa viết than trách nỗi mình tệ bạc. Sư Đàm Liên lắng nghe, nước mắt lưng tròng. Sư không nói gì. Nhưng đến đêm, sư đã đọc đi đọc lại cả bài thơ không sai một từ. Trong đêm khuya, sư khẽ thốt lên rằng:

- Chiêu Bảy ơi, chàng còn nhớ chăng bài thơ chàng cảm thán cho số phận buổi loạn lạc năm xưa. Còn thiếp, thiếp nhớ như in bài thơ. Cảnh tang tóc trong bài thơ thì nhiều người biết. Nhưng cảnh tang tóc trong lòng thiếp thì ai tỏ tường. Sư khẽ ngâm:

Hồng – Châu trước nỗi binh đao
Kim đôi chiến đấu máu đào thành sông
Xương vùi mồ mả chập chồng
Lũy xưa cát trắng một vùng còn ghi

Một buổi khác, cũng lựa khi đương vui, sư Đàm Liên nói rằng:

- Chúng ta sắp phải chia tay. Tôi về Huê Cầu còn quan nhân về Hương Sơn. Tôi hỏi khí không phải mong quan nhân xá lỗi. Tôi nghe nói xứ Nghệ gỗ tốt, tôi muốn nhờ quan nhân tìm mua cho một cỗ áo quan có được chăng?

Lãn Ông nhận lời. Ông nhờ người tìm ngay nhưng chưa có. Đành hẹn dịp tốt sẽ cho người đem đến.

Lại một hôm khác, Lãn Ông tâm sự với sư Đàm Liên về việc muốn in bộ sách “Lãn Ông tâm lĩnh” tại Thăng Long vì ở đây mới có điều kiện khắc ván. Tiếc rằng công việc cứ nấn ná mãi. Sư Đàm Liên nói muốn được xem sách. Lãn Ông liền trao cho cho sư Đàm Liên mượn về chùa Liên Tôn. Trên đường về, sư Đàm Liên ghé qua chợ Mơ mua giấy, bút, mực. Những ngày, đêm sau đó, sư bà và ni cô thấy sư Đàm Liên luôn tay chép lại sách “Lãn Ông tâm lĩnh”. Họ hỏi, sư Đàm Liên cười nói vì muốn học chút nghề thuốc để phòng thân và may ra có thể cứu giúp được ai đó chăng. Sư Đàm Liên cũng căn dặn sư bà và ni cô đừng nói cho ai biết việc chép lại sách này.

Cái ngày sư Đàm Liên chép xong sách “Lãn Ông tâm lĩnh” thì cũng chính là ngày Lãn Ông báo rằng ngày mai, ông sẽ trở về Hương Sơn. Đây là cơ hội mà ông cần phải chớp lấy để giũ bỏ chốn đô hội mà ông không muốn những danh lợi nhuốm vào.

Hôm sau, sư Đàm Liên tới tiễn Lãn Ông. Hai con người tóc bạc da mồi nhìn nhau bịn rịn. Nhìn nhau không muốn chớp. Hình như ai cũng linh cảm rằng đây là lần gặp nhau cuối cùng trên dương thế.

Lãn Ông khẽ mở tay nải, lấy ra một bọc lụa gói ghém cẩn thận, hai tay trao cho sư Đàm Liên, bùi ngùi:

- Tôi đã nhận lời mà chưa làm được. Nay lại phải về Hương Sơn. Có một chút này biếu sư dùng để mua bộ áo quan như đã hứa.

Sư Đàm Liên giơ tay cản. Nhưng Lãn Ông cố đưa, nói rằng:

- Vì tôi sư đã lận đận nhiều. Một chút này mà sư cũng không nhận thì lòng tôi muôn phần đau đớn không yên. Mong sư hãy nhận cho.

Sư Đàm Liên miễn cưỡng nhận. Rồi họ chia tay.

Câu chuyện về việc Lãn Ông biếu sư bà Đàm Liên năm quan tiền cổ để mua áo quan có lẽ nhiều người biết. Lãn Ông cũng đã kể ngắn gọn tình tiết này trong “Thượng kinh ký sự”. Thế nhưng, chính Lãn Ông không hề biết: ước nguyện của sư bà Đàm Liên khi đánh tiếng nhờ mua giúp bộ áo quan tốt chỉ là cái cớ. Sau này, khi sư bà Đàm Liên viên tịch, ni cô cùng đi tu theo sư có kể rằng: sư Đàm Liên có ước nguyện khi mất sẽ được nằm trong bộ áo quan mà Lãn Ông, tức cậu Chiêu Bảy lo cho, chứ sư Đàm Liên cần gì quan tài gỗ tốt hay không tốt đâu...

Ni cô cũng kể: dù ban đầu sư Đàm Liên tính toán là thế song sự thể lại chẳng được như ước nguyện. Khuyến hóa xong, sư Đàm Liên đã ở lại kinh thành. Hàng ngày, ngoài việc chăm nom cùng sư trụ trì chùa Liên Tôn, sư Đàm Liên còn đi giúp dân làm lễ và nhiều công việc khác. Sư Đàm Liên chăm chỉ tích cóp từng đồng xu nhỏ. Có người biết chuyện chê bai, dè bỉu sư tham lam. Sư nghe chỉ cười chứ không hề nói lại. Một ngày, người ta thấy sư thuê một tốp thợ khắc ván. Những người thợ của kinh thành này sau đó đã khắc trọn bộ “Lãn Ông tâm lĩnh” truyền lại cho đời sau.

Công việc xong xuôi, tốn kém rất nhiều. Sư Đàm Liên đã không giữ được một đồng xu nào từ năm quan tiền cổ mà Lãn Ông đưa tặng để mua bộ áo quan.

*
*      *

Câu chuyện của ông già trong quán cà phê khiến tôi bần thần cả người mà quên không hỏi địa chỉ của ông ở đâu. Ông có nói gia tộc ông đã gìn giữ bộ ván khắc “Lãn Ông tâm lĩnh” còn khá nguyên vẹn. Không biết gia tộc ông có liên quan gì tới sư bà Đàm Liên không. Nếu không phải trong gia tộc thì sao dòng họ ông lại có bộ ván khắc này...

Người đời sau được thừa hưởng rất nhiều từ vốn y thuật của “ông già lười” Lê Hữu Trác. Điều đó ai cũng biết rất rõ, nhất là các thầy lang. Nhưng kết cục, sư bà Đàm Liên, người đã thuê khắc “Lãn Ông tâm lĩnh” viên tịch ở đâu, được an táng chốn nào? Câu hỏi này cơ hồ không có lời đáp nếu không tìm được ông già trong quán cà phê hôm nào.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Mối tình của ông già lười (Phần cuối)<br><i>Truyện ngắn của Từ Khôi</i>
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO