Mê điệp (Phần cuối)
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Hòa

Rõ là ma thì mới có thể nhìn xuyên cả chăn bông dày sụ bọc vải nâu. Không tóm được tôi trong buồng, con ma vụt ra: "Chị Mơ đâu?". Nó hỏi nhanh, như hỏi chỉ là cớ để lục lọi. Không đợi ai trả lời, lại như đã thấy rõ tôi bằng cái nhìn xuyên chăn, con ma thò tay thộp trúng tôi đang co quắp, cố thu mình, gọn lỏn dưới đôi chân nồng mùi bùn, mẹ phải chống gối, tạo mái như mái chữ A, phủ kín chăn giấu tôi. Thộp được tôi, con ma lực sỹ lôi tuột vào buồng như lôi con mồi về hang hòng xé xác, trước mắt cả nhà không ai mảy may, như thể mọi người tưởng tôi đã thấm nhuần lời mẹ khuyên: "Con phải thương em mà cho nó nương nhờ tý bóng vía. Cứng vía như con thì sẽ chẳng sao đâu". Theo như mẹ nói, thì ma sợ người cứng vía như tôi, nên cái Đài bị ma rượt phải lập tức tìm người cứng bóng vía mà trốn, ma sợ vía tôi chỉ còn nước cách cho xa hoặc kinh hãi đến biến mất. Mẹ người trần mắt thịt sao biết nổi rắp tâm bọn ma. Hơn nữa hành động bấy nay đâu phải của cái Đài mà chính là của ma, con ma đội lốt cái Đài như nhằm chính tôi mà hành hạ. Lạ ở chỗ cả nhà không ai chịu tin rằng cho dù ma có sợ vía tôi đi nữa thì tôi cũng là con gái, là kẻ nhát và cũng đang sợ ma vãi linh hồn, rất có thể đứng tim, chết vì sợ. Khéo con ma đã bịt mắt cả nhà tôi mất rồi. Thảo nào, không ai mảy may thấy tôi đang xọp đi rõ rệt vì lo sợ, mất ăn, mất ngủ. Con ma đánh lạc hướng cả nhà, hòng vây bủa tôi trong đơn độc, để ăn tươi nuốt sống tôi ngay trước mắt mọi người. Cảm giác ớn lạnh hết đợt này đến đợt khác, luôn hành hạ tôi không chỉ tới tận lúc con ma bị bố tìm lôi về mà còn cả lúc chỉ một mình, như thể tôi luôn bị con ma đó luôn dõi theo, rình rập.
Cả nhà bị ma ám mất rồi thì tôi phải tự cứu mình thôi. Phải thoát ngay khỏi cái làng mà tôi đã thử trốn ở bất cứ đâu cũng lập tức bị con ma tìm được và lôi về. Đi làm thuê, thời cơ vừa vặn khi cái Thêu, bạn học khi nó theo cơ quan sơ tán lên làng tôi rủ rê. Xí nghiệp bao bì của bố mẹ nó sau chiến tranh phá hoại đã trở về chỗ cũ, cách làng tôi tám cây số với sáu điểm đỗ xe buýt, Đi đóng hòm gỗ gia công cùng nó ở xí nghiệp bố mẹ nó, tôi sẽ vừa trốn xa khỏi con ma, vừa trốn khỏi chân lấm tay bùn, vừa có tiền, lại hàng tuần được ăn diện, đi xe buýt về như một công chức đích thực. Mà biết đâu sau một tuần không có tôi, con ma đã kịp tìm kẻ (cứng bóng vía) khác theo cách nghĩ của mẹ, và buông tha cho tôi. Nhưng điều quan trọng nhất lúc này là tôi phải trốn được con ma trước khi chuyến xe buýt chở tôi rời khỏi làng.
Lên xe sau thời gian dằng dặc thấp thỏm, dậy thật sớm, nháo nhác chạy, bồn chồn chờ, đúng cách kẻ trốn chạy, nhằm lúc thường ngày con ma mệt lử, nằm bẹp sau cả một đêm trắng hoảng loạn, vài lần lao vào tôi, lại vài lần bị bố điệu về. Chuyến xe sớm lúc còn nhọ mặt người, đông nghịt kẻ đi chợ, công chức đi làm. Lẽ ra đã chuyển bánh thì ông lái chùng chình như đột ngột lên cơn nhạt miệng không thể chịu nổi, ơi ới sai anh lơ chạy xuống quán mua hộ vài điếu thuốc. Anh lơ lon ton vào quán khi mặt người mỗi lúc một rõ nét, rõ đến nỗi tôi chợt thót tim. Một bóng lừng lững, khuôn mặt tròn trịa như được nặn bằng sáp, nước da trắng bợt như da người chết, đích thị cái Đài đang tiến tới. Tự kỷ dẫu là lực sỹ, biết thu mình như Tôn Ngộ Không thì con ma đội lốt cái Đài cũng không thể rẽ nổi rừng người như nêm cối quanh tôi mà tiếp cận tôi tận giữa xe, nói chi dắt díu lôi xuống. Thêm nữa anh lơ tay nắm chặt vài điếu thuốc từ lúc nào đã kịp phóc lên, loay hoay lèn người, kéo cửa. Đúng lúc tôi sắp thở phào vì xe bắt đầu chầm chậm tiến, trong tiếng ầm ì động cơ, tiếng ồn ào hành khách và tiếng anh lơ léo nhéo thì cái Đài đã tóm được tay vịn cửa xe, và hệt như bị ma ám, cái xe không những không có vẻ sắp chạy nhanh, còn rì rì như chỉ đợi con ma vừa xuất hiện, leo được chân lên, cho dù xe khách thường ngày, trăm cái như một, lập tức vù biến, kiểu bỏ của chạy lấy người, sau khi trót dại trườn vào bến, trót dại lãnh đủ nạn chen chúc. Lạ hơn là anh lơ, không xua rối rít, không la toáng bằng câu bất hủ rằng: "Bắt chuyến sau thôi! Còn khối. Giờ này năm phút một chuyến. Đang nối đuôi nhau mà lên đấy. Khéo ung dung một mình một xế, tội gì chen lòi tù và cho khổ". Lái xe chờ như ma ám, anh lơ như bị ma ám cũng hiền lành nhường chân, cả hành khách nêm cối cũng thế, bỗng dưng cứ rẽ rạt như nhường lối cho công an vào lôi tội phạm. Đến thế rồi thì tôi chỉ còn nước nổi da gà, rùng mình ớn lạnh khi bàn tay băng giá nắm được tay tôi và nhắm mắt guồng chân theo nó, trốn đâu cho thoát.
Hóa ra tôi không chết mòn. Bỗng biến đâu con ma đội lốt, cái Đài trở lại chính nó, đứa như sinh ra để len lét, lý nhí, cùm cụp, như sợ hãi bất kỳ ai từ đứa lên năm đến lão kề miệng lỗ. Kẻ mang bộ dạng sợ hãi kinh niên ấy lại không ra khỏi nhà, trừ khi đi học, lúc được nhận học trở lại. Cả bố nó lẫn sự hạ cố cũng biến mất như chưa hề có. Không bị nó quấy rầy, tôi sung sướng thoát nạn và yên trí dài bởi mẹ cho tôi hay rằng: "Nó khỏi là vì mẹ nó lén bố nó tìm được thầy phù thủy cao tay, lấy cho nó đạo bùa đeo". Thế là thoát. Phù thủy muôn năm, bùa đeo muôn năm.
Nhưng tôi đâu ngờ, mình sung sướng hơi sớm, để chột dạ, hốt hoảng khi nó hớt hải lao tìm tôi. Lần này vào ban ngày, lại phải tìm, phải hỏi, chứ không thể nhìn xuyên thì chắc không phải ma đội lốt, tôi định thần tự nhủ. Len lén, cùm cụp, đứng như trời trồng, tay vân vê gấu áo, cái Đài khẳng định điều tôi đoán là đúng, chỉ có điều sao bỗng dưng nó lại tìm tôi. Dẫu ề à, dẫu lý nhí đến sốt ruột, lại chỉ nhớ lõm bõm thì cuối cùng tôi cũng xâu chuỗi được qua lời kể nhát gừng nó, mà thành câu chuyện có đầu, có đuôi rằng, bỗng một ngày, nó phải quét nhà thay cái Thắm em nó vào buổi trưa, cái Đài vô tư khua chổi vào gầm bàn thì chợt thấy bung ra cả một vầng sặc sỡ, sáng lóe, nhìn kỹ hoá toàn bướm, dễ cả trăm con, đủ các màu. Chưa kịp hiểu ra làm sao, thì nhanh như chớp, lũ bướm hóa thành vô số những bóng người đen sì, hò hét, chạy vòng quanh, đòi bắt cái Đài mang đi. Cái Đài hãi hùng, bỏ chổi chạy thục mạng. Đang không biết thoát thân lối nào, thì đột nhiên ông chú chết trẻ bỗng hiện về, quần áo trắng toát, chỉ nó chạy vào lối có một người con gái đứng đợi sẵn. Hóa ra người con gái đó chính là tôi. Chú nó xui cứ bám chặt vào đấy sẽ thoát. Mà chính nó lúc ấy cũng cảm nhận được rằng phải bám chặt lấy tôi không thể khác. Nó làm theo lời chú và hơn thế là cảm giác yên ổn của chính nó. Có lẽ con ma đội lốt nó dạo ấy chính ông chú chết trẻ của nó. Chả thế mà tôi và nó ở cách ngót cây số đường làng dích dắc, quẹo trái, rẽ phải, khuất tầm bởi lớp lớp nhà cửa, vườn tược, rào lũy xum xuê mà nó vẫn thấy được, bảo sao tôi trốn đâu nó cũng nhìn xuyên, bắt trúng lôi thốc ra. Chú nó thật rồi. Tôi bất giác rợn người, và ớn lạnh khi nó lí nhí, ê a rằng, chả hiểu sao việc mẹ nó lấy bùa, lộ đến tai bố nó, ông liền lồng lộn, chửi bới om sòm, bảo mẹ nó ngu si, tối tăm, tốn công, tốn tiền vào ba cái trò mê tín dị đoan, lại bắt mẹ phải vứt ngay đạo bùa, bắt nó quét nhà đúng giờ ngọ, giờ ông thầy đã dặn phải kiêng, để chứng tỏ rằng nó khỏi chính vì thuốc hay của bố nó chứ không phải vì đạo bùa vớ vẩn kia. Nhớ lõm bõm rằng khi bị rượt đuổi phải chạy tìm tôi, cái Đài trong cơn sợ đến u muội, như được ma xui cũng chợt nhớ phải tìm, phải lôi bằng được tôi về, giấu vào xó gần nhất có thể, để nó sẵn chỗ lao vào khi nhát chổi định mệnh giờ ngọ lùa vào đó. Đã một lần, chính tôi cũng vãi hết linh hồn. Nhưng biết làm sao, cho dù giờ cái Đài không thể lôi tôi xềnh xệch trước mũi cả thiên hạ mà không ai hay biết như hồi ma đội lốt, thì tôi cũng bị lôi kéo vì mủi lòng, vì thương hại.
Từ xó giấu gần đến nỗi có thể thấy rõ tất cả, hãi hùng không kém, tôi tim đập muốn vỡ ngực. Đúng lúc nhát chổi cuối thò vào đến giữa gậm bàn thì không chỉ cái Đài mà cả tôi cũng nhìn thấy rõ mồn một từ đó bung ra một vầng bướm sặc sỡ, và lập tức cái Đài lúi ríu đến nỗi không chạy nổi, lại ngã kềnh, ú ớ, mắt trợn ngược, mồm méo xệch. May mà mẹ nó nấp đâu đó kịp nhảy xổ ra. May hơn là đạo bùa mẹ nó không vứt mà giấu trong người, kịp lấy ném vào giữa người nó. Có vẻ như đạo bùa phát huy tác dụng, cái Đài phút chốc hoàn hồn, lồm cồm bò dậy, lầm lũi cất chổi. Chuyện hôm ấy duy chỉ tôi, cái Đài và bố mẹ nó biết. Mẹ nó vốn đàn bà, mà đàn bà ngày ấy vẫn bị xem là ngu muội, mê tín dị đoan. Cái Đài tuy con gái, có học, nhưng ai tin con bệnh vừa qua một cơn tâm thần, không ăn không ngủ, ngày đêm hốt hốt hoảng hoảng như sợ tất thẩy, rất có thể bị lại. Còn bố nó, người luôn tự hào mình thầy giỏi, lạc giữa một đám đốt nát, mù dở, núi Thái Sơn lù lù không thấy, cứ khăng khăng rằng thày gì, lang băm thì có. Kẻ ấy đời nào thú nhận với lũ dốt chuyện cái Đài khỏi vì bùa chứ không vì thuốc. Chỉ còn tôi, thì thói hay nói khoác tai hại, khiến chả ai tin tôi ngoài chị, mẹ, lũ em lau nhau bốn đứa. Hơn thế, ông anh đại học năm thứ hai, giỏi toán chỉ tin vào duy vật của tôi sau một hồi giả vờ lắng nghe, giả vờ thấu hiểu, gật gù như tán đồng cho tôi vân vi dốc hết gan ruột, rồi mới quay ngoắt, nhếch mép cười ruồi, xỏ xiên rằng: "Chao ơi. Ban ngày mà thị nở nhà tôi biết mơ bướm cơ đấy". Và từ đó thỉnh thoảng thích trêu tôi, anh lại điệp khúc xỏ xiên. Dần dà, như chợt nhận ra hai từ mê bướm nghe không thanh cho lắm, ông anh trí thức đầy mình của tôi đổi ngay thành mê điệp, để thỉnh thoảng văn vở xỏ xiên tôi rằng: "Thị nở mê điệp của anh ở đâu nào, ló cái nhan sắc ra để anh nhờ tý đây...". Giá anh tôi chỉ một lần nhìn rõ mồn một cái vầng đáng sợ như tôi, chắc tôi chả bị anh cười vào mũi như thế. Trăm phần trăm sẽ là như thế.