Mây bạc (Phần cuối)
Truyện ngắn của Nguyễn Thị Phước

Cô ca sĩ có chất giọng thật đẹp, mềm ấm và sang trọng, không đoạt giải nhất, đã khiến tôi buồn bực mất mấy ngày. Khi giọng hát ấy cất lên, tôi xúc động trào nước mắt: “Một đêm trăng lên thấp thoáng, tôi nghe tiếng Balalaica, lặng nghe khúc hát Vonga bồng bềnh trên sóng nước sông Đà, tưởng như thiên nga chắp cánh...” Không phải vì đây là bài hát yêu thích của lứa sinh viên chúng tôi thời ấy. Cũng không hẳn vì bài hát có giai điệu trữ tình, sâu lắng liên quan đến nước Nga (ngày ấy, và cả bây giờ nữa, các bài hát Nga và bài hát về nước Nga, tôi đều mê). Quả thật, cô ca sĩ hát bài này, ngoài chất giọng đẹp, gương mặt phúc hậu, những đường nét mềm mại, đằm thắm và đầy vẻ đoan trang, cô đã hát bài hát này với một xúc cảm khác thường. Tôi cảm được sự run rẩy, tình yêu sâu sắc với đất nước Nga, và sự hiểu biết về văn hóa Nga. Tôi đã nghe bao nghệ sỹ nổi tiếng hát bài này, nhưng chưa có ai làm tôi xúc động mạnh như thế. Cả hai vùng đất ấy, nước Nga xa xôi và sông Đà, tôi chưa từng được đặt chân đến, vậy mà cảm thấy rõ ràng một dòng sông trăng, một dòng âm thanh mênh mang dịu ngọt, hòa trộn tinh hoa của hai nền văn hóa, giữa quá khứ và hiện tại...
- Không! Bỏ hẳn tên Thu Hảo ra. Thay bằng ca sĩ Ban Trắng, với bài... bài gì nhỉ? À, “Trăng sông Lam”!
- Không phải sông Lam mà là sông La - Tôi nổi cáu - Bài ấy có vào giải đâu? Biên bản chấm thi cả sao và gốc, đủ cả năm chữ ký hai cái dấu đỏ chót đây này. Ba ông nhạc sỹ nổi tiếng, chức danh kêu như khánh như chuông cả, đã ký những chữ to tướng.
- Thay đổi rồi - Tổng biên tập nói và chìa ra cho tôi xem một tờ giấy cũng có hai dấu đỏ, và một, hai... đủ năm chữ ký giống hệt năm chữ ký tôi đang cầm trên tay.
Tôi không dám tin mắt mình nữa. Cuộc thi ấy được đài truyền hình tỉnh truyền hình trực tiếp, tôi là một trong hai thư ký của Hội đồng, có quyết định hẳn hoi, vậy mà toàn bộ hồ sơ chấm thi tôi đang giữ, tất cả đều hợp pháp, đầy đủ thủ tục, bỗng hóa thành mớ giấy lộn.
Cơn giận đã bừng bừng bốc trong đầu tôi. Tôi vò mớ giấy tờ định xé nát ném vào mặt bà tổng biên tập, chợt nhớ lời em gái tôi tối qua nói trên điện thoại: “Tháng này chị hạn nặng. Xem hai nơi đều bảo thế. Không đi đâu xa. Không làm việc lớn. Không tranh cãi với ai”.
Tôi nuốt giận. Bàn tay cầm nắm giấy tờ vẫn run lên.
Bà tổng biên tập quả xứng đáng là bề trên. Bàn tay nõn nà mềm mại xoa vai tôi, vuốt tay tôi, đỡ lấy nắm giấy, giọng nói mềm lại như nhung:
- Thôi, Mai cho qua đi. Hội đồng đã làm việc lại vì hôm trước có chút trục trặc. Đáng lẽ chị phải báo trước cho em để mời em cùng dự, nhưng việc gấp quá, em lại đi vắng nên không kịp (rõ ràng bà biết từ sáng tới giờ tôi chưa rời cơ quan nửa bước). Thu Hảo hát hay thật, chị nghe cũng chảy cả nước mắt, xứng đáng giải nhất chứ không phải là nhì đâu. Nhưng cô ấy còn trẻ, còn nhiều dịp tranh tài. Có tài thật sự thì lo gì! Không trao lần này thì lần sau. Việc này có những lý do tế nhị, sau này chị nói rõ với em. Giờ em đừng để người ngoài nhìn vào lại tưởng chị em mình có chuyện gì. Việc này là vì Hội, vì báo thôi. Với lại, chị thấy cô Ban Trắng hát cũng không đến nỗi nào. Cô ấy cần cái giải vì phải làm hồ sơ xét nghệ sỹ ưu tú, lại phải tranh cái huyện ủy viên, sẽ phụ trách văn - xã, báo mình còn phải nhờ cậy nhiều.
Trời ạ! Tôi nghe ù cả tai. Giải mới chả giếc! Có mà dải rút! Thế mà cái trò hề của các bà đã làm tôi tốn bao công sức. Chạy ngược chạy xuôi, dỗ dành từ thằng nhạc công đến mấy đứa kỹ thuật, loa máy, từ phòng thu, phòng dựng, phòng bảo vệ... Phải nhét phong bì vào tay cả những đứa vớ vẩn. Cứ như mấy người dạy xiếc thú nhét mía vào mồm voi, nhét lạc vào mõm gấu khi chúng biểu diễn ấy!
- Thôi, để chị bảo cậu thư ký tòa soạn nó cầm sang nhà in cho. Em mệt cứ về nghỉ, nhé! À, cầm mấy chục, ra mua con gà luộc, trưa khỏi phải đi chợ em ạ!
Chẳng nói thì tôi cũng mặc xác các người. Chứ tôi mà lại cầm cái của hủi ấy của các người à!
Tôi bốc xe máy, vù ra đường, phi như mụ điên. Có lẽ trông mặt mũi tôi kinh lắm nên ai nấy giạt ra cả. Tuy nhiên, cái bọn choai choai đánh võng lại không biết sợ ai. Và một thằng đã quẹt vào đít xe tôi. Thế là tôi ngã, gãy mất ba dẻ sườn! May mà cái đầu đang bốc khói không sao. Thật là hú vía!
Tôi nằm nhà hai tháng, ê ẩm hết cả mình mẩy. Người cứ như sợi bún, hư tính hư nết, làm khổ chồng khổ con. Tôi chán mình chán người, mò dậy ra ga mua vé tàu. Đi chơi xa, cho nó qua cái năm xung tháng hạn, để xả bớt nỗi bực bội trong lòng.
Mùa này tàu rảnh. Cả khoang sáu giường chỉ có ba khách. Một ông tầng ba, trèo lên một lát, tàu chưa chạy đã nghe ngáy ò ọ. Cô gái tầng một bên cạnh, tôi nom quen quen. Vầng trán thật đẹp, đôi mày cong thanh thoát, mũi dọc dừa, môi hồng, cằm chẻ, cổ cao ba ngấn, mái tóc búi một cuộn thật to... Đúng rồi! Thu Hảo! Không trang điểm kỹ như lên sân khấu nên tôi không nhận ra ngay. Tôi buột miệng gọi tên cô.
- Sao chị biết tên em?
- Em vừa dự cuộc thi “Hát dưới trăng” cách đây vài tháng mà.
Cô gái cười nhếch miệng. Một tay chống cằm. Tay kia, những ngón măng bấm lên mặt bàn như bấm phím đàn.
- Chị rất tiếc là em không được giải.
- Em bị mất đấy! Mười triệu đồng...
- Sao em biết?
- Một ông nhạc sĩ trong ban giám khảo là bạn của ba em.
- !!!
- Bác ấy bảo, nói cũng chẳng ích gì đâu. Giải của họ, họ muốn trao cho ai thì trao. Mời mình chấm chỉ là trang trí thôi. Cho nó sang mà!
- Nhưng ông ấy không cãi lấy một câu nào sao?
- Bác ấy không muốn để người ta nghĩ là mình có bất đồng với ông chồng bà Hội trưởng Hội Bách Nguyệt. Sợ người ta nghĩ mình tranh cái ghế của ông ấy. Đang làm phó cho ông ta mà!... Bác ấy định đưa em hai triệu, bảo đền cái phần em bị mất vì chữ ký của bác ấy. Tiền cũng quý. Nhưng em buồn không phải tiếc tiền. Em cũng cần cái giải đó. Mà chẳng sao! Giọng hát em không mất là được. Không ai lấy của em được. Em bỏ quê mà đi cũng vì thế! Yêu quê lắm. Muốn phục vụ quê hương lắm, nhưng không có hứng nên ở lại hát cũng không hay nữa!
- Em hát bài “Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà” rất tuyệt đấy! Chị nghe thấy lạ lắm, có gì đó ám ảnh mãi!
- Chị biết không, ba mẹ em lấy nhau và sinh em ở Nga. Ba em biết chơi đàn Balalaica, biết hát rất nhiều bài hát Nga, nhảy các vũ điệu Nga. Sau này về nước sống, cứ nhắc đến nước Nga là ông chảy nước mắt. Em mất cái giải này, chỉ thương ba em. Em muốn dâng lên linh hồn ba em...
- Ba mất lâu chưa?
- Hồi có vụ tai nạn ấy...
- Ờ, chị có biết vụ đó!
- Giờ em sẽ lên sông Đà thắp hương cho ba, rồi quay về Hà Nội. Có một đoàn nghệ thuật quân đội đã tuyển em vào. Giọng chính đấy!
- Mừng cho em! Nhớ thỉnh thoảng về quê hát nữa nhé!
- Hát chứ! Đang giận thì nói thế thôi. Bỏ quê thế nào được. Riêng chuyện chị nhớ em, nhớ tiếng hát em đã là một cái giải thưởng đấy!
Tôi biết là cô đang nói rất thành thực. Thì mình cũng thế thôi, đôi khi những món quà nho nhỏ lại làm ta thật xúc động. Có khi món quà ấy chỉ là một câu nói bình thường nhưng mang âm điệu khác lạ...
- Thôi, chị xuống ga Si đây, không đi Hà Nội nữa - Tôi đột ngột quyết định.
- Sao chị đổi ý nhanh thế? - Hảo nhướn cặp mày thanh tú, hỏi tôi.
- Ra Hà Nội chỉ để đi chơi thì phí quá. Không được đi cùng em thì tiếc thật, nhưng chị phải về quê để kịp nghe một bà cụ hát mấy bài hát cổ, kẻo không, cụ mà đi mất thì tiếc lắm!
- Chị nghĩ thế cũng phải. Không được đi cùng chị em cũng tiếc.
- Đaxviđanhia! - Tôi chào Hảo một câu tiếng Nga
- Đaxviđanhia! - Hảo nhắc lại bằng lối phát âm rất chuẩn.
Tàu chạy. Hảo hét với theo tôi:
- Chị tên gì để em gửi đĩa có bài hát ấy về tặng chị?
Tôi hét lại thật to như sợ em không nghe rõ.
Chỉ có vài ba người khách cùng xuống tàu và chẳng ai không vội vã. Còn lại một mình trên sân ga, tôi mới nhận ra là đang ở giữa một đêm trăng. Vầng trăng đang khuyết dần vì đã qua rằm mất mấy hôm, nhưng vẫn đẹp nao lòng. Còn đẹp hơn cả khi nó đầy tròn vành vạnh. Bây giờ trông nó giống một miếng ngọc phát sáng hơn. Thỉnh thoảng có một vài đám mây xúm lại, được trăng lồng vào, làm thành vầng mây lấp lánh bạc. Cả bầu trời vẫn sáng trong, mát rượi. Thường thì trăng tách khỏi những đám mây, thản nhiên đứng không như chẳng làm gì. Thật ra, nhiều khi trăng còn soi tận lòng người. Tôi nghĩ thế.