Mang bút nghiên xẻ dọc Trường Sơn

Hải Đường 29/08/2022 06:09

Tình nguyện xông pha vào chiến trường B khói lửa, giữa lúc mái đầu còn xanh và sức cống hiến đang rực rỡ, những chiến sĩ giải phóng trên mặt trận giáo dục năm xưa nay mái đầu đã bạc nhưng vẫn nhớ về hành trình in dấu chân trên tuyến đường huyền thoại, mang bút nghiên xẻ dọc Trường Sơn.

Ra đi quyết giữ lời thề

Mấy mươi năm đã trôi qua, cô gái đôi mươi ngày nào giờ đã ngoài 70 tuổi, nhưng bà Phạm Thị Hải Ấm không thể quên ngày tháng thanh xuân cùng đồng nghiệp cống hiến cho sự nghiệp phát triển giáo dục miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mới 21 tuổi và vừa rời ghế giảng đường, Phan Thị Hải Ấm là thành viên trẻ nhất đoàn giáo viên tình nguyện đi B ngày 5.3.1969.

Thầy cô thuộc Chi hội Cựu giáo chức đi B, cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo, xem lại hồ sơ đi B lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III
Thầy cô thuộc Chi hội Cựu giáo chức đi B, cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo, xem lại hồ sơ đi B lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III

Tại buổi họp mặt và trao trả Hồ sơ của cán bộ đi B, cựu giáo chức cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo, do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III tổ chức ngày 25.8, bà Ấm xúc động chia sẻ: “Tình nguyện đi B, không ai dám hẹn ngày về. Tất cả tư trang quần áo, giấy tờ nói lên mình là người miền Bắc đều phải cất hết, ảnh gia đình người thân không được mang theo, còn phải thay tên đổi họ. Trước khi đi chỉ biết mình vào miền Nam, vào vùng giải phóng mở trường cho con em miền Nam. Chia tay bố mẹ, anh em là không hẹn ngày về, nhưng quyết tâm là quyết tâm”.

Bấy giờ, trong tâm thế của các thầy cô giáo ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đi B là thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt cao cả, mà ai cũng biết cùng với đó là gian khổ, là mất mát, hy sinh. Có những đoàn hành quân 2 - 3 tháng, thậm chí tới 5 - 6 tháng, vì qua từng bước chân là cái đói, cái khát, là bom đạn kẻ thù và những cơn sốt rét rừng đe dọa. “Dốc Nguyễn Chí Thanh thẳng đứng, chân người nọ chạm đầu người kia. Cánh đồng tràm Đồng Tháp nước mênh mông, chân lội lên gốc tràm tứa máu”, bà Hải Ấm kể. Hay như lời của cô giáo Bùi Thị Nguyên về đường hành quân năm 1965: “Đi đường vào Nam, trên đường xa xôi, chúng tôi gặp hỏi giao liên: Đồng chí ơi, đường sắp tới có bằng phẳng không? Các đồng chí giao liên đều cười động viên: Đường hôm nay nhiều đoạn bằng lắm. Kỳ thực đường Trường Sơn thì có bao giờ bằng đâu. Nhưng thầy cô bảo nhau cứ đi là sẽ đến”.

Cứ đi là sẽ đến dù cung đường ấy có bao vất vả gian nan và nguy hiểm. Nhiều thầy cô đã vĩnh viễn nằm lại trên tuyến đường Trường Sơn. Thầy giáo Nguyễn Thế Bảo kể, ông tình nguyện đi B năm 1969 khi đang là giảng viên Trường Sư phạm Thái Bình. “Chỉ nói đến đường hành quân thôi đã không biết bao nhiêu gian khổ. Đoàn tôi có thời điểm phải nằm lại cả tháng trong hang khu Bảy Núi, An Giang, đã có ý định chuyển sang đơn vị bộ đội để cầm súng trực tiếp chiến đấu. Ngày mai định chuyển sang bộ đội thì hôm nay các đồng chí bên tuyên huấn trung ương đến kịp thời, cấp tiền, cấp gạo để chúng tôi tiếp tục xuống Cà Mau nhận nhiệm vụ. Tôi có một anh cùng quê đã hy sinh sau một trận càn của giặc. Cả đoàn xốc tinh thần của nhau để cùng vượt mọi khó khăn, động viên nhau cố chờ đến ngày thống nhất”.

“Giáo dục sẽ hồi sinh đất nước”

Với tinh thần tình nguyện, từ cuối năm 1959, hàng trăm đoàn cán bộ đã bí mật vượt Trường Sơn vào miền Nam. Trong đó, có hàng nghìn nhà giáo miền Bắc phải gác lại gia đình, sự nghiệp để lên đường đi B. Thầy giáo Lê Đình Lập kể lại, ông tình nguyện đi B năm 1973 khi đang là giáo viên dạy trường cấp 3 ở thị xã Phủ Lý, Hà Nam. “Bấy giờ, cả nước sục sôi tinh thần hướng về giải phóng miền Nam. Tôi là một thầy giáo nhưng đồng thời cũng là một công dân, nên quyết tâm viết đơn đi chiến trường, còn làm nhiệm vụ gì cũng được. Rất may lúc đó có chủ trương đưa cán bộ giáo viên vào, tôi vô cùng phấn khởi”.

Trên đường vào nơi đạn lửa, thầy giáo Lê Đình Lập có kỷ niệm để đời mà sau này, rất nhiều dịp ông vẫn nhắc lại cho con cháu, và gọi nó một cách dí dỏm là: Trên đường hành quân cũng được mang chức bố. “Chẳng là khi đi, vợ tôi mang thai sắp sinh. Tôi vào đến Hà Tĩnh thì đoàn dừng đóng quân, tôi nhờ đồng chí làm ở bưu điện trong đó để liên lạc với gia đình. Gia đình mới biết, điện vào báo cho tôi rằng vợ đã sinh con gái. Đến giờ tôi vẫn còn giữ bức điện với dòng chữ ngắn gọn: Nhà vợ đã sinh con gái, vợ con khỏe, cứ yên tâm”.

Với những chiến sĩ giáo dục, trong hành trang đi B còn có thêm những cuốn sách giáo khoa, cuốn sổ tay văn, sử, địa, toán, lý, hóa, sinh… Tất cả cùng hướng về chiến trường miền Nam khốc liệt. Ở nơi ấy, họ được giao một nhiệm vụ đặc biệt: vừa xây dựng và phát triển giáo dục, vừa làm công tác tuyên huấn để đấu tranh với địch. Ra đi để dựng trường, mở lớp cho con em đồng bào miền Nam, nhưng đến chiến trường, để phục vụ cho công cuộc kháng chiến, các nhà giáo đã được giao rất nhiều nhiệm vụ khác nhau, người dạy học, người làm báo, người nghiên cứu giáo dục, người tham gia công tác tuyên huấn…

Bà Bùi Thị Nguyên kể: “Có lần tôi xuống xã tuyên truyền thì nghe tin địch càn. Tôi đi qua con sông ở gần Quảng Nam, trên thì máy bay, dưới thì xe tăng, quân bộ, không có hầm bí mật, cuối cùng tôi men theo bờ sông, lần theo bụi tre hai bên, rồi túm được một gộc ngả xuống sông, cứ thế nằm ngửa dưới nước từ 8 giờ sáng đến 7 giờ tối. Mãi tối thấy im ắng tôi mới mò đường về khu tuyên huấn huyện”.

“Chúng tôi đã vượt Trường Sơn không phải bằng sức lực mà bằng ý chí người thầy. Chúng tôi đã dạy lớp thế hệ học trò dưới tán cây, trong hầm bí mật, khi địch càn. Cũng chỉ vì một niềm mong mỏi, đó là thống nhất Bắc Nam, và tin rằng giáo dục sẽ hồi sinh đất nước”, thầy giáo Đỗ Trọng Văn, Chi hội trưởng Chi Hội cựu giáo chức đi B, cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo, chia sẻ.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Mang bút nghiên xẻ dọc Trường Sơn
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO