Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụngĐiều chỉnh thẩm quyền cho vay đặc biệt, giảm khâu trung gian
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng đã điều chỉnh thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước đối với khoản vay có lãi suất 0%/năm, khoản vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm từ Thủ tướng Chính phủ thành Ngân hàng Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, giúp giảm bớt khâu trung gian trong quá trình triển khai thực hiện việc quyết định cho vay đặc biệt.
Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Quang Dũng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng đã luật hóa một số quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, kịp thời xử lý các vướng mắc, khó khăn trong công tác xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Để bảo đảm phân cấp, phân quyền triệt để cho Ngân hàng Nhà nước, cũng như hỗ trợ thanh khoản kịp thời cho các tổ chức tín dụng thông qua cho vay đặc biệt, Luật quy định Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay đặc biệt có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm đối với tổ chức tín dụng. Tài sản bảo đảm của khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm.
Phó Thống đốc cho biết: “Việc điều chỉnh thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước đối với khoản vay có lãi suất 0%/năm, khoản vay đặc biệt không có tài sản bảo đảm từ Thủ tướng Chính phủ thành Ngân hàng Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, giúp giảm bớt khâu trung gian trong quá trình triển khai thực hiện việc quyết định cho vay đặc biệt, rút ngắn thời gian xử lý, bảo đảm việc cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước được tổ chức, thực hiện kịp thời, góp phần giữ vững an ninh, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng”.
Luật quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Theo đó, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Việc thu giữ tài sản bảo đảm chỉ được thực hiện trong trường hợp hợp đồng bảo đảm hoặc trong văn bản khác (sau đây gọi là hợp đồng bảo đảm) có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
“Quy định này nhằm bảo đảm việc thu giữ tài sản bảo đảm được thực hiện trên cơ sở tôn trọng quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận giữa các bên, phù hợp quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự 2015”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.
Quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng của vụ án hình sự
Luật cũng quy định, việc thu giữ phải bảo đảm đáp ứng các điều kiện như khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về dân sự; tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Cùng các điều kiện là: tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản; tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ; tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại luật.
Phó Thống đốc nêu rõ, “để tránh việc lạm dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm, Luật quy định rõ trong quá trình thu giữ, tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội”.
Tổ chức tín dụng chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng bán nợ. Tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc hoặc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc.
Đồng thời, tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải xây dựng và ban hành quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm, bao gồm cả quy định khi thực hiện việc ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Theo quy định của Luật, tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ bị kê biên, xử lý theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự trong các trường hợp sau đây: Hợp đồng bảo đảm đã được ký kết và phát sinh hiệu lực sau thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ.
Điểm mới của Luật vừa được Quốc hội thông qua là bổ sung quy định sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm nếu hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Việc xử lý tài sản bảo đảm sau khi được hoàn trả được thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2025.