Lũ ơi! Đừng dữ nữa... (Phần 1)
Truyện ngắn Nguyễn Mỹ Nữ
>> Lũ ơi! Đừng dữ nữa... (Phần cuối)
MỘT
Quê Tèo nằm cuối nguồn hai con sông lớn, nên lãnh đủ chuyện lũ lụt. Sống ở đây lâu, từ con nít cho tới người già, từ đàn bà cho tới đàn ông đều rất lo lũ sợ lũ. Trời nắng ráo, khô hanh không nói gì. Vô mùa mưa gió bão bùng, đêm ít ai dám ngủ cho thẳng giấc bởi canh cánh trong lòng nỗi lo thiên tai ập tới bất ngờ. Phải lắng nghe gió chuyển, mưa sa, nhìn sông, coi trời để mà đoán định và bàn bạc với nhau cách phòng ngừa, chống đỡ. Chứ lũ thường tới rất nhanh, nhiều khi, đã lo trước mà còn trở tay không kịp, nữa là… Và cũng nhiều khi, chẳng có dấu hiệu gì hết mà ào tới tức thì. Như năm 2008, mưa lớn suốt mấy ngày đêm ròng rã nhưng mặt sông vẫn ở mức bình thường, nước vẫn trong xanh. Thế nên, hai cha con Tèo mới yên tâm khi vác lưới đi. Chưa được mẻ cá đầu bỗng nước từ đầu nguồn tuôn đổ về ầm ào và gió tự nhiên sốc xoáy khác thường. Rồi nước bạc màu, ngầu đục. Gió vậy và nước vậy, theo kinh nghiệm của ba, thể nào cũng có nhiều loại thủy sản ngon và hiếm, sinh sống từ đầu nguồn do nước cuốn mà trôi về. Và, chắc chắn là phải có lịch huyết. Mà có thiệt và có nhiều bởi chỉ mấy mẻ lưới hai cha con đã kiếm được cả chục ký lịch. Cá cũng nhiều quá chừng mà toàn loại cá ngon, mới sướng chứ! Nhưng nước vầy gió vầy, không chừng có lũ. Ba mím chặt môi, nói gọn lỏn: “Về, kẻo không kịp”. Tèo đang cơn ham nên ậm ực, không vui. Ba thấy vậy, chọc: “Về, để má còn làm lịch huyết cho ăn nữa chứ”.
![]() Minh họa của Thanh Huyền |
Nghe ba nói, tự nhiên nước miếng trong miệng Tèo ứa khan. Lịch huyết ngon lắm mà rất bổ nghe. Lịch huyết giống con lươn nhưng nhỏ hơn. Hiếm, bởi đâu có thường xuyên. Chỉ mấy lúc sông nước vầy mới thấy có và rộ chừng ít bữa là hết. Có nhiều, thể nào má cũng cho cả nhà ăn bắt đã đời còn đem ra chợ bán, kiếm cũng được bộn tiền. Lịch huyết, mấy năm trước rẻ rề chứ giờ Trung Quốc họ thu mua rồi. Lịch nhỏ nhất cũng đã bốn năm chục ngàn một ký. Lịch to trăm rưỡi trăm hai như không. Thường, lịch huyết đem về má chịu khó lọc lựa lại. Loại to thì để bán và loại nhỏ để nhà ăn. Nhỏ to, với gia đình Tèo đâu có gì là quan trọng. Quan trọng là người nấu mà má làm món gì cũng ngon. Như món gỏi lịch trộn với các loại rau thơm, đậu phộng xúc bánh tráng ăn bắt no kềnh vẫn còn muốn xúc tiếp, xúc tiếp. Rồi món lịch huyết um với củ chuối lá lốt. Rồi cháo lịch nóng hôi hổi, được húp từng ngụm lớn, giữa lúc cả người đang thấm mưa lạnh ngắt như vầy, thôi chứ bàn cãi gì nổi. Húp tới đâu, cái ngọt cái ngon cái nóng đi theo tới đó. Đầu tiên là cặp môi, cái lưỡi, hai hàm răng rồi tới cái cổ họng, bao tử… Ham cá ham lịch, ham thức ăn cho nhà, ham tiền nhưng ba Tèo vẫn không quên được hiểm nguy. Vì mưa mỗi lúc một to thêm, nước trên nguồn đổ về dữ hơn và gió xiết mạnh khiến chiếc ghe nhỏ xíu liên tục chòng chành và đã mất lần suýt lật.
Chỉ mới trước đó không lâu, Tèo vừa phụ ba thu lưới vừa hình dung tới những món ngon từ lịch huyết và chảy nước miếng. Vậy mà chỉ trong phút chốc, hết lịch hết chình hết chuyện uống chuyện ăn. Chỉ còn có nỗi hãi sợ lấn át. Ba trằn người ra chống đỡ. Tất cả sức nặng của cơ thể đổ dồn hết lên đôi tay, đôi chân để giữ cho cái ghe được thăng bằng. Trong khi đó, Tèo hối hả múc nước trong ghe ra và phải cắn răng thật chặt, hai hàm mới bớt va vào nhau, lập cập. Cái chết cầm chắc mười mươi vậy mà như có phép màu. Dòng nước dữ dội cuốn ghe trôi ào ào và không ngờ, xoáy cuốn trở xoay sao đó, mà lại đẩy ghe mắc kẹt nơi ghềnh đá, sát mé sông. Cha con bò lết leo được lên cái mỏm đá cao nhất. Và, tay Tèo chỉ vừa kịp níu lấy cành sung sà sát mặt sông thì cái ghe đã vỡ vụn và biến mất. Vuốt nước mưa tràn mặt, Tèo mếu máo nói: Con ráng kéo lết được bao lưới lịch huyết nhưng rớt hết. Ba ôm Tèo, thều thào: “… Cái… thằng… chết cũng… không… bỏ… được nết… láu ăn”.
Tới nửa khuya, hai cha con mới lếch thếch về được tới nhà. Chòm xóm, chỉ có mấy người cận thân ở lại. Ba nhìn bàn thờ nhang khói nghi ngút, nhìn hết cả gia đình mình và bật cười thật to. Thằng Tí với bé Út vẫn ngồi đợi chứ chưa chịu lên giường ngủ. Cả ông bà nội nữa. Má mừng quá vừa khóc vừa đấm ba thùm thụp, vừa la vừa ôm Tèo hôn chùn chụt. Má nói có báo chính quyền, có nhờ bà con nhưng phương tiện cứu hộ ở xã thôn làm gì có. Thêm nữa, mọi người đang lo phòng chống lũ, có đâu rảnh rang mà lo mạng cho cha con Tèo. Ba nghe, đang vui chợt đôi mắt tự nhiên tối sầm. Một đôi mắt tối thui trên khuôn mặt khắc khổ, khiến Tèo thắt ruột và thấy xót xa sao đâu. Ông nội lấy gậy dứ dứ vô mặt ba, gằn giọng: “Giờ, mưa to gió lớn là không có lưới có cá gì hết nghe chưa?”. Sau khi đã thay đồ khô, ba và Tèo được má cho uống một ca nước đường âm ấm. Nói để hồi sức và lật đật dọn cơm. Thì ra cả nhà, ngoại trừ bé Út, vẫn chưa ai chịu ăn bữa chiều. Má nói, phải như đừng lo lũ cuốn vô tới đây ngay giờ, sẽ làm thịt một con gà mái tơ, để ăn mừng cha con Tèo thoát nạn.
Phải ăn rất vội, vì còn phải gấp gáp sắp soạn đủ thứ. Nghe tin, phát đi qua loa đài trên xã, là nước dâng lên cao lắm rồi. Và, đang muốn tràn vô xóm một là vùng trũng nhất và lại sát rìa sông. Chỉ mong ở cái sức nước. Nói như bà nội là sức nước không mạnh không dữ, là gặp may rồi. Trúng lũ hiền rồi. Và sức nước bắt khiếp hồn khiếp vía, là xui rủi rồi. Là gặp lũ hung rồi. Mà lũ hung thì sợ lắm và khổ vô cùng. Mà cái sức nước đi và cái sức nước phá, ai mà hiểu hết? Sao dò tính nổi? Nên, lo được chút nào thì lo để bớt tổn hại được chừng nào, đỡ chừng đó.
Đã quen nên rất thuần thục, ba và Tèo gác mấy tấm ván dài lên mấy cây đà nhà, ở trên cao, cột buộc lại cho thật chắc rồi chuyển lên đó lương thực dự trữ và một ít áo quần. Cái giàn gác cao này được kêu là chòi rầm. Đầu tiên là đồ đạc và chỉ khi nào nước ùa vô sân rồi mấp mé trong nhà, ba mới chịu chuyển người lên rầm. Bà nội rồi tới ông rồi bé Út, cứ theo thứ tự vậy. Tùy theo mực nước và nếu cần, ba lại đưa tiếp hai anh em Tèo rồi tới má. Còn ba, chỉ leo lên chòi rầm với cả nhà hồi ăn cơm hay ban đêm thôi. Má cũng thường ở dưới để phụ ba. Hai người lo che chắn, gia cố thêm nhà cửa, mót vét ít hạt, ít củ từ mấy vồng khoai, luống đậu. Quơ quào mớ rau trái trong vườn, cắm câu kiếm ít cua còng, cá mú… Đang lúc chạy lũ nên cơm nước cho nhà má cũng lo đại khái. Củi lửa ướt át cơm bữa sống, bữa khê và đồ ăn rất hạn chế. Giàn bếp của má được ông nội kêu là bếp dã chiến. Là trên một tấm tôn cũ, bắc trên cái bàn rộng và cái bàn này, lại được kê trên bộ ván ngựa. Bếp vậy chất đốt vậy má phải giỏi lắm, nhà mới có cơm ăn.
Lũ hoài nên quen. Cầu cho được cơn lũ hiền để cả nhà còn có thể sinh hoạt như vậy. Chứ đã lũ, thì sao tránh khỏi lúa má, hoa màu úng rũ hư hao. Và ở chòi rầm sao mà thoải mái cho được. Ai cũng cảm thấy bí bách khó chịu. Bọn con nít vui, đâu được chừng nửa buổi. Chắc do thay đổi cảnh sống nên lạ và thấy thích. Sau đó, là bứt rứt không yên. Hai anh em Tèo, xé giấy vở xếp thuyền thả cùng hết ngôi nhà mình, đang bị ngập nước. Thả rồi chăm chú ngó theo. Cũng hay hay. Thuyền chui dưới gầm bộ ván ngựa, ngược dòng quay lại cái tủ thờ, xoay trở liên tục trước khi chìm nghỉm, ngay dưới hộc bàn… Thả thuyền chán hai anh em lấy giấy bút ra chơi ca rô, ai thua bị véo tai. Cũng chán, lại bắt chước bé Út bắt ông nội kể chuyện.
Ngày thường, ông nội đâu có được lũ cháu yêu cầu vì ông kể dở lắm. Ba nói, do răng ông bị rớt hết nên cái tiếng nó không có chắc mà kể chuyện ăn thua là ở cái tiếng. Ông nội không chịu, nạt lại: “Bay nói tào lao. Kể chuyện là ăn thua ở câu chuyện. Răng tao rớt chứ mà câu chuyện tao kể đâu có rớt. Câu chuyện còn y nguyên. Còn đầy đủ bộ dạng. Còn đầu còn đít. Còn tai còn mắt đàng hoàng. Chứ đâu có như bà vợ tao đây. Cái người răng không rớt mà kể câu chuyện, rớt hết trọi”. Tèo láu cá hỏi tới: “Là sao hả, ông?” Ông cuốn một điếu thuốc rê, nhả khói bay khét lẹt chòi rầm. Hút đã mới thủng thẳng: “Thì, kể câu chuyện giống như mình đi chợ mua đồ nấu canh chua. Mua trụi lủi một món nhưng mà mua đủ, không thiếu thứ gì. Cái tới chòm dừa làm rớt bó lá giang, cái tới xóm giữa làm rớt mấy cọng ngổ, cái tới ngay con ngõ đây làm rớt hành. Chừng về nhà còn có mớ cá không! Nấu sao? Ăn sao? Hử?” Tèo, vốn lanh lảu vọt miệng trước: “Thì cá đó! Mình kho mẳn hay nấu ngót cũng ngon quá trời”. Ông cười chế nhạo: “Nhưng, đây là canh chua mà”. Thằng Tí cũng không vừa: “Nhằm nhò gì. Mình ra suốt ít lá me hay bứt đỡ mấy trái khế cũng vẫn có canh chua vậy”. Bé Út lắc đầu thất vọng: “Chuyện đi chợ mua có xoong canh chua mà ông kể còn không hay. Sao chuyện công chúa, hoàng tử, chuyện muôn loài thú ông kể hay cho được?” Bị các cháu tấn công dữ quá, ông mới chịu thú nhận là do bị chê răng rớt hết nên mới bất mãn, sinh tự ái. Với thêm nữa, là cái cách khèo bà nội vô cho vui cho rộn, chứ sao bà nội… cá thể quá.
Biết ông ghẹo mình nhưng bà vẫn làm thinh. Ngồi bó gối, chồm hổm ngó chán thấy mồ. Bà đang cơn thèm trầu đó mà. Không có lần nào, dọn lên chòi rầm mà bà lại không buồn thiu buồn thỉu. Biết sao không? Vì bà quên đem cơi trầu theo và nó bị nước cuốn, trôi đâu mất. Có hồi nhớ được, mừng run lập cập mở ra, mới hay là không còn lấy một lá trầu. Cái quên này không đáng lo. Vì, có cả một giàn trầu dày ken ở dưới vườn. Ới một tiếng là ba ngắt cả xấp, chuyền lên ngay. Rồi có hồi, nhớ đem theo cái cơi trầu còn đủ mọi thứ lại phát hiện ra hũ vôi cạn queo. Bà than thở: “Ăn trầu không vôi khác gì ba tụi bay ăn cơm không ớt. Lạt miệng khó chịu lắm”. Sẵn đang bực tức vì bị bó chân bó cẳng, ông la om sòm: “Thì thôi đừng ăn. Chứ bà nhịn ít bữa không được na. Bà thèm trầu bằng tui nghiện cờ không, hử?” Nghe ông nạt, bà lẩm bẩm: “Người ta ăn trầu cái miệng còn được chút thơm chút cay, chứ đây đánh cờ chỉ được cái lưng đau, chứ được gì?” Nghe ông bà lời qua tiếng lại, Tèo cũng thấy vui vui. Ông bà nội Tèo đã trên tuổi bảy lăm mà còn mạnh giỏi vầy, mừng thiệt. Ông ghiền cờ thôi chứ khỏi phải nói. Bạn cờ của ông là ông Ba Màu ở sát bên. Ngày nào ông nội cũng chống gậy lò dò qua đó, ngồi chơi cờ cả buổi. Mà không là buồn bắt bịnh, bắt bỏ ăn. Như bà nội hồi không có trầu vậy. Nhớ, thèm và buồn thiu. Buồn, đến mức không muốn nói và có ai hỏi tới, cũng không thèm trả lời nữa chứ, ở đó mà kể chuyện.
Ở chòi rầm sướng nhất là tới hồi được ăn cơm. Mà kỳ dị ghê! Ở không đâu có phải làm gì mà sao cái bụng nó cứ rột rẹt đói khan và thèm ăn đủ thứ. Bữa cơm mùa lũ gọn bưng. Chỉ có xoong cơm với trẹt mắm kho. Mắm có thể là mắm cá cơm, mắm nước. Kho sao cho keo sệt lại và mặn chằng. Mặn tới mức, chỉ cần quẹt một chút nơi đầu đũa và quẹt chừng vài bận là đủ, cho một chén cơm vun. Cách ăn vậy nên mới kêu là mắm quẹt. Chỉ cầu cho lũ hiền hiền vì lũ có vậy, mới được ở yên trên chòi rầm. Và ở chòi rầm, cầu cho có mắm quẹt ăn đã mừng. Đôi hồi, ba má cũng kiếm thêm được chút đồ để cải thiện. Có khi được chảo cá bống kho tiêu, có khi được xoong mắm cua đặc sệt, vàng ươm gạch, nhìn qua là nước miếng ứa rồi…
(Số sau đăng hết)