Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Nhân dân ta đã ghi một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Dân tộc. Với khẩu hiệu “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong thắng lợi vĩ đại đó.
Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nhận định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi sau 21 năm chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ. Đây cũng là thời kỳ phụ nữ nước ta vùng dậy mạnh mẽ và oanh liệt hơn bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử của dân tộc”.
Kế thừa truyền thống của dân tộc, của phụ nữ cả nước, phụ nữ miền Nam Việt Nam trong 21 năm chống Mỹ cứu nước (1954-1975) đã cùng nhân dân miền Nam lập nên những kỳ tích trên mọi lĩnh vực, từ đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, trên mọi mặt trận: binh vận, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục... ở chiến trường hay trong hậu cứ, trên rừng núi hay dưới đồng bằng, ngoài đường phố hay trong nhà tù - đâu đâu cũng có mặt các mẹ, các chị, các em dũng cảm, kiên cường. Đúng như Hồ Chủ tịch đã tổng kết: “Phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Bài viết này muốn giới thiệu một nữ nhà giáo - liệt sĩ với đầy đủ những phẩm chất đó - chị Nguyễn Thị Diệu (1926 - 1955) một gương sáng của ngành giáo dục nước ta trong những năm chống Mỹ.
Chị Nguyễn Thị Diệu sinh ngày 11.6.1926 trong một gia đình quan lại tại làng Tân Phong, xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi. Cha chị là cụ Nguyễn Văn Hiền được bổ nhiệm làm Thượng thư của triều đình Huế.
Lúc nhỏ, chị theo cha vào Nam Bộ, nơi cụ thân sinh được bổ nhiệm làm Tổng đốc Rạch Giá, và những năm học tiểu học, chị được gia sư kèm cặp, học tập tại nhà. Sau đó, được cha gửi lên Sài Gòn học trường nữ sinh Marie - Curie. Nhờ thông minh lại chăm học, chị học giỏi, đỗ tú tài hạng ưu.
Theo những bạn học cùng lớp kể lại, tuy là con quan, sống trong nhung lụa, nhưng chị rất ghét Tây. Chị chủ động và tích cực tham gia các phong trào yêu nước thời đó do tổ chức Thanh niên Tiền phong phát động. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, với nhiệt huyết của tuổi 20, chị tham gia hoạt động trong tổ chức Phụ nữ Cứu quốc Sài Gòn.
Chính quyền non trẻ của nhân dân ta vừa ra đời đang đứng trước những khó khăn ghê gớm. Ở miền Bắc, nạn đói đe dọa sinh mạng của hàng triệu đồng bào. Ở miền Nam, quân Anh được đồng minh cử vào tước vũ khí của quân Nhật, lại giúp cho thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ ngày 23.9.1945. Sài Gòn thực hiện việc tiêu thổ kháng chiến, mọi người đều hừng hực khí thế, tổ chức chiến đấu đến cùng.
Chị Nguyễn Thị Diệu được tổ chức phân công ở lại nội thành tiếp tục hoạt động bí mật.
Năm 1948, chị lập gia đình với anh Phạm Phong Lâm, một nhà báo cách mạng, bút danh Hoa Lư.
Năm 1950, bị lộ do có kẻ phản bội khai báo, địch truy lùng gay gắt, tổ chức điều chị ra chiến khu nhận công tác mới.
Mặc dù được sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, vào chiến khu chị đã sớm thích nghi với cuộc sống đầy gian khổ, thiếu thốn đủ thứ, nhanh chóng hòa mình cùng đồng đội.
Theo chủ trương của Trung ương, sau khi hợp nhất các tổ chức Đảng Tiền phong và Giải phóng, các đoàn thể thuộc hai tổ chức trên cũng lần lượt được hợp nhất ở Nam Bộ. Sau khi các tổ chức phụ nữ kháng chiến Nam Bộ hợp nhất, chị Nguyễn Thị Diệu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Thực hiện trọng trách được Trung ương Hội giao, chị thường xuyên xuống cơ sở để tuyên truyền, phổ biến, vận động chị em phụ nữ hưởng ứng các phong trào, các cuộc vận động do Trung ương Hội phát động.
Chị tự chèo xuồng trên các kênh rạch, thực hiện “ba cùng” với bà con nông dân. Thái độ “dấn thân vào công việc” của chị khiến mọi người ngạc nhiên và mến phục.
Bà Bùi Thị Nga - Ủy viên Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (khóa II), phu nhân của Kiến trúc sư, Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát, người cùng công tác nhiều năm với chị Diệu - kể lại: “Chị Diệu mà chúng tôi thường gọi “lá ngọc cành vàng” từng sống trong nhung lụa đã có “sự đổi đời” nhanh chóng và kỳ lạ kể từ khi chị trở thành người cán bộ cách mạng chuyên nghiệp. Chị sống như một nữ nông dân thực thụ, sẵn sàng chịu đói, chịu khổ vì công việc. Có không ít lần chị phải vượt qua bom đạn của máy bay và đồn bốt địch để đến các địa phương vận động bà con đóng thuế nuôi quân và đã từng bị bảo an binh vây bắt, song nhờ nhanh trí và được sự đùm bọc của đồng bào, chị đã thoát ra khỏi vòng vây và trở về căn cứ an toàn.
Bận rộn với công việc, song trong bất cứ hoàn cảnh nào, chị vẫn không quên trách nhiệm làm mẹ, làm vợ. Là người phụ nữ, một nhà giáo, ở chị hội tụ đủ bốn thứ "công, dung, ngôn, hạnh". Chị chăm sóc gia đình chu đáo, sẵn lòng giúp đỡ bạn bè, đồng đội nên được mọi người thương yêu và kính nể”.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và bè lũ tay sai buộc phải ký Hiệp định Genève vào ngày 20.7.1954 công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quy định sẽ Tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7.1956 để thống nhất đất nước. Hiệp định cũng nêu rõ: Trong khi chờ đợi tiến hành Tổng tuyển cử để hòa bình thống nhất đất nước, hai bên ngừng bắn, chuyển quân tập kết về hai miền Bắc và Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời.
Đồng chí Nguyễn Thị Diệu được tổ chức phân công ở lại Sài Gòn và hoạt động công khai với danh nghĩa là nhà giáo. Từ chiến khu, chị chuyển về ở tại số nhà 13 Trần Quốc Toản hiện nay - một biệt thự của cha chị - Thượng thư Nguyễn Văn Hiền. Chị giảng dạy tại Trường nữ trung học Đức Trí tại quận I và hoạt động trong nghiệp đoàn giáo dục tư thục do Giáo sư Lê Văn Thới làm Tổng Thư ký - một tổ chức của trí thức yêu nước Sài Gòn với mục đích: đoàn kết các nhà giáo trong cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất đất nước, chống văn hóa giáo dục đồi trụy, phản động, thực hiện chương trình giáo dục mang tính dân tộc. Chị được cử tham gia vào ban lãnh đạo chung và trực tiếp vận động học sinh và giáo viên các trường mà chị đang giảng dạy tham gia các cuộc biểu tình đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi hòa bình, thống nhất đất nước. Bị địch đàn áp dã man, phong trào tạm lắng, song chị vẫn duy trì được một tổ xung kích tại trường mình phụ trách và vẫn vận động quần chúng xuống đường đấu tranh.
Ngày 3.7.1955, sau hàng loạt các cuộc biểu tình liên tiếp đòi trả tự do cho những người bị bắt trong phong trào hòa bình, bọn Mỹ - Diệm mở chiến dịch càn quét, truy bắt cán bộ cách mạng. Chúng ập đến nhà chị định bắt anh Hoa Lư chồng chị nhưng nhờ nhanh trí và có kinh nghiệm, chị đã che giấu được chồng và tổ chức cho anh thoát khỏi nhà ra bưng biền ngay đêm hôm đó.
Ngày 6.7.1955, do bị chỉ điểm, trên đường đến trường, cô giáo Nguyễn Thị Diệu bị bọn cảnh sát của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bắt giam. Trước những trận đòn tra tấn hết sức dã man của kẻ thù, chị không khai, quyết giữ vững khí tiết của người cán bộ cách mạng. Không khai thác được gì ở chị, chúng đã có một việc làm đê hèn, bí mật thủ tiêu và vứt xác chị xuống giếng tại vườn cao su xã Linh Đông, huyện Thủ Đức trong lúc chị đang mang thai.
Nhà giáo Nguyễn Thị Diệu đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, một liệt sĩ gan vàng dạ sắt đã tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của phong trào phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước.