Làng hai Trạng nguyên
Trâu Lỗ là tên chữ, tên Nôm là làng Sổ, một làng cổ kính, thời Trần thuộc xã Ba Lỗ, huyện Tân Phúc, nay thuộc xã Mai Đình, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Là nơi có truyền thống khoa bảng, người dân Trâu Lỗ vẫn tự hào rằng, làng mình là làng hai Trạng nguyên.
![]() Đình làng Trâu Lỗ |
Làng Trâu Lỗ nằm bên tả ngạn sông Cầu, phía tây nam làng là ngã ba Xà, chỗ sông Cà Lồ đổ vào sông Cầu, địa danh nổi tiếng trong lịch sử, nơi vua Lê Đại Hành, thế kỷ thứ X, đã đắp thành Bình Lỗ, chặn đánh giặc Tống xâm lược. Vào thời Lý, thế kỷ XI, giặc Tống sang xâm lược nước ta lần nữa, trên bờ bắc sông Cầu thuộc huyện Hạ Hòa, diễn ra trận chiến lừng danh lịch sử của tướng quân Lý Thường Kiệt, đánh bại mười vạn quân Tống. Những công tích ấy có sự đóng góp của dân làng Trâu Lỗ. Chỉ qua hai sự kiện lịch sử trên đã cho thấy, làng Trâu Lỗ dân hưng vật thịnh từ hơn ngàn năm trước!
Từ khá xa, người ta đã nhìn thấy cây đa cổ thụ ở đầu làng, bên cạnh đền Sổ. Gốc nguyên sinh của cây đa không còn nữa, thân gốc hiện nay là do rễ cây tỏa xuống, kết với nhau tạo nên, 5 người nối tay nhau không ôm xuể. Đền Sổ, tên chữ là Tam Giang thần từ, theo các cố lão trong làng thì đền còn có trước cả đình. Từ năm Giáp Dần 1674, niên hiệu Đức Nguyên thứ nhất đời Lê Gia Tông, đã có sắc phong cho ngôi đền. Trải qua 200 năm binh hỏa, đến thời Tự Đức, nhà Nguyễn, người dân Trâu Lỗ đã trùng tu toàn bộ đền Sổ. Trong đền, trước hậu cung treo bức hoành phi do Đình nguyên Nguyễn Đình Tuân cung tiến, với bốn chữ đại tự: Hệ xuất thần minh (dịch ý: các thế hệ nối tiếp noi gương sáng của thần linh). Trong đền còn lưu giữ được những đồ tế khí có giá trị văn hóa - lịch sử quý, như bình hương gốm cổ đắp nổi rồng chầu và hổ phù cho thấy tài hoa của nghệ nhân gốm Thổ Hà thời xưa; đôi phỗng đá ở trần đóng khố ở hai bên tả, hữu, được tạo tác bằng đá xanh tinh xảo…
Đình Sổ là một trong những ngôi đình cổ và đẹp của vùng đồng bằng Bắc bộ, được dựng năm Đinh Tỵ 1677. Đây là một công trình kiến trúc điêu khắc gỗ tinh xảo với quy mô khá đồ sộ, gồm tòa đại đình 5 gian và tòa tiền tế 5 gian. Tòa đại đình có 6 vì kèo và 6 hàng cột cao to lừng lững đỡ bộ khung mái uốn xoải rộng, dài và mềm mại với những đầu dao cong có đắp nghê chầu, phượng múa rất sinh động. Bộ khung gỗ lim lõi mà các nghệ nhân xưa tạo tác thành sáu vì có giá trị văn hóa - lịch sử khá đặc biệt. Đặc biệt ở các đầu bẩy và hoành màn được tạo tác nhiều mảng hoa văn rồng mây cách điệu và biến thể, đẹp uyển chuyển và đầy thần thái. Toàn bộ ngôi đình lại là một công trình nghệ thuật với cấu trúc rất hài hòa! Từ năm 1964, đền Sổ, cùng với đình Sổ, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật.
Trâu Lỗ là đất văn vật, có truyền thống khoa bảng khá sâu dày, đến mức người dân ở đây vẫn tự hào rằng, làng mình là làng hai Trạng nguyên. Quả thực như vậy, không kể những người Trâu Lỗ đỗ tiến sỹ, cử nhân và tú tài nhiều khoa thi trong lịch sử thi cử thời phong kiến, chỉ xin nói tới hai vị đã đỗ Thủ khoa trong các kỳ thi Tiến sỹ (được vinh danh là Trạng nguyên). Người thứ nhất là Đoàn Xuân Lôi, đỗ Trạng nguyên khoa Thái học sinh năm Giáp Tý 1384, niên hiệu Xương Phù thứ tám đời Trần Phế Đế. Ông làm quan đến chức Trung thư hoàng môn Thị lang kiêm Thông phán Ái châu. Đoàn Xuân Lôi cũng là một tác gia văn chương nổi tiếng đương thời, có tác phẩm được lưu lại trong bộ Quần hiền phú tập. Người thứ hai là Nguyễn Đình Tuân, đỗ Đình nguyên khoa Tân Sửu 1901, niên hiệu Thành Thái thứ mười ba (nhà Nguyễn không lấy Trạng nguyên, không bổ chức Thừa tướng, và không lập danh vị Hoàng hậu). Bia Tiến sỹ tại khu Văn Thánh, Huế, có ghi tên tuổi, quê quán 9 vị Tiến sỹ khoa này, người đỗ đầu là Nguyễn Đình Tuân. Đình nguyên Nguyễn Đình Tuân giữ chức Đốc học Ninh Bình, Đốc học Hà Đông. Thời gian làm Đốc học trường Quy Thức, Hà Nội, ông giao du thân thiết với nhiều nhân sỹ trong Đông Kinh Nghĩa thục, như Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Ngô Đức Kế… Nguyễn Đình Tuân còn là một tác gia văn chương nổi tiếng đương thời, để lại cho đời nhiều tác phẩm, trong đó có bộ sách khá đồ sộ Đại Nam quốc sử cải lương, ghi lại lịch sử nước nhà từ thời Hồng Bàng đến những năm đầu thế kỷ XX, với gần 800 trang chữ Hán.
Xin lưu ý bạn đọc rằng, Sổ là một làng rất cổ, tên nôm na ban đầu là Kẻ Sổ (kẻ là từ gọi những vùng đất người Việt ta định cư buổi ban đầu). Đến năm 1384, Đoàn Xuân Lôi đỗ Trạng nguyên, vào triều làm quan, đã tâu xin vua Trần cho làng tên chữ là Trâu Lỗ (đất Trâu và đất Lỗ là quê hương của đức Khổng Tử và Mạnh Tử). Vua chuẩn y, từ đó làng có tên Trâu Lỗ; cũng từ đó, truyền thống văn vật và khoa bảng thêm sâu dày. Các vị cố lão trong làng tin ở truyền thống đó, và vẫn luôn nhắc nhở con cháu phát huy những nét đẹp của quê hương.