Lạm phát năm 2010 là một hay hai con số?
Việt Nam đã tạo được thành công kép khi là một trong những nước đạt tăng trưởng dương khá (5,3%) và khống chế lạm phát ở mức một con số (6,88%) trong một năm đầy khó khăn như năm 2009. Đây là cơ sở để Chính phủ đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% và kiềm chế lạm phát ở mức 7% vào năm 2010. Tuy nhiên, mức lạm phát này liệu có khả thi khi theo dự báo, chỉ số giá các mặt hàng thiết yếu đều sẽ tăng khá mạnh trong những tháng đầu năm?
Nguy cơ lạm phát cao đầu năm
Theo các chuyên gia, giá cả năm 2010 sẽ tăng vì các mặt hàng thiết yếu như điện, than, nước, xăng… sẽ được điều tiết theo giá thị trường, có thể đẩy lạm phát lên cao hơn 10%. Đơn cử, theo lộ trình từ năm 2010 giá bán điện sẽ theo cơ chế thị trường và được điều chỉnh mỗi năm một lần vào ngày 1.3 hàng năm, nếu giá bán điện bình quân dự kiến cho năm tiếp theo tăng hoặc giảm 5% trở xuống sẽ do Bộ Công thương phê duyệt, vượt hơn 5% sẽ do Thủ tướng quyết định.
Nhìn nhận từ góc độ quản lý vĩ mô, Cục trưởng Cục Quản lý giá, Bộ Tài chính Nguyễn Tiến Thỏa cho rằng, các nguyên nhân trực tiếp gây tăng giá ngay từ đầu năm 2010 là do độ trễ từ sự nới lỏng các chính sách tiền tệ, tài khóa của năm 2009 chuyển qua. Lộ trình tăng lương tối thiểu trong năm 2010, nhu cầu mua tăng cao trong dịp Tết nguyên đán sắp tới… cũng là tác nhân quan trọng đẩy giá các mặt hàng leo thang.
Đồng quan điểm này, TS Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TƯ nhìn nhận, giá cả trong nước sẽ tăng do độ trễ của chính sách nới lỏng tiền tệ năm 2009 cộng thêm việc giá cả nguyên liệu trên thị trường thế giới tăng. Song băn khoăn lớn nhất của chuyên gia này là tác nhân tăng giá từ việc giá các mặt hàng thiết yếu như điện, nước… sẽ theo cơ chế thị trường. Bởi nước sinh hoạt, điện hay than hiện có mức độ cạnh tranh rất thấp, thậm chí còn yếu tố độc quyền, trong khi giá đã theo thị trường phải có được sự cạnh tranh thực sự.
Nguyên nhân lạm phát cao trong năm 2010 có thể còn do bội chi ngân sách quá lớn. Như năm 2008, bội chi ngân sách chỉ ở mức trên 5% GDP nhưng lạm phát đã lên tới 19,89%. Năm 2009 có thể xem là ngoại lệ khi bội chi ngân sách lớn hơn, ở mức 6,9% nhưng không bùng phát giá cả do kinh tế suy giảm, người tiêu dùng phải tiết giảm chi tiêu. Tuy nhiên, theo dự đoán, khả năng bội chi ngân sách trong năm 2010 sẽ tiếp tục ở mức cao, trong khi nền kinh tế đã vượt khỏi suy thoái thì nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng mạnh trở lại, tạo áp lực lên lạm phát. Thêm vào đó, tăng trưởng tín dụng và nhập siêu cao cũng có nguy cơ gây lạm phát cao trong năm 2010. Cụ thể, tỷ lệ huy động vốn vào ngân hàng của cả năm 2009 chỉ tăng 26% trong khi tăng trưởng tín dụng cả năm đạt hơn 37%, đồng nghĩa với phần chênh lệch 10% sẽ phải dựa một phần không nhỏ vào tăng phát hành tiền.
Dẫn ra nguy cơ giá cả sẽ tăng mạnh, lạm phát có thể vượt 10%, các chuyên gia đều cho rằng, để mục tiêu kiềm giữ lạm phát ở mức 7% Chính phủ phải có chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý giá cả hợp lý trong năm 2010. Song việc kiềm chế lạm phát vẫn phải đảm bảo lợi nhuận doanh nghiệp và quyền lợi của người dân.
“Tuýt còi” nếu doanh nghiệp nâng giá quá cao
Trên thực tế, nhiều kịch bản khác nhau đã được đặt ra cho tăng trưởng kinh tế và lạm phát năm 2010, kịch bản ấy bi quan hay lạc quan còn phụ thuộc vào điều hành của Chính phủ.
Vậy bài toán điều hành giá cả phải tiến hành như thế nào? Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Hà Nội cho rằng, bài toán quan trọng trong công tác điều hành kinh tế năm 2010 là ngăn chặn những cơn sốt giá ngược dòng như giá xăng, giá sữa và tình trạng đầu cơ, lũng đoạn thị trường. Bài học bùng phát các cơn sốt trên các thị trường nhà đất, chứng khoán, USD đều do không xử lý được tin đồn và tâm lý người dân.
Còn theo đề xuất của TS Võ Trí Thành, để giá cả các mặt hàng thiết yếu theo thị trường mà không tạo ra các cú sốc lớn, cơ quan quản lý phải có chế tài nếu mức giá doanh nghiệp đưa ra quá cao, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích người tiêu dùng. Đồng thời, Nhà nước phải có các chính sách kích thích để doanh nghiệp làm ăn có lãi với chi phí sản xuất ở mức thấp nhất. Bài học từ nhiều nước cho thấy, một doanh nghiệp độc quyền nếu có mức tăng hàng hóa thấp hơn so với mức lạm phát chung sẽ được hưởng những ưu đãi thuế, hỗ trợ nghiên cứu…
Doanh nghiệp cần có lãi nhưng đời sống người tiêu dùng cũng cần được đảm bảo. Bởi thế, ưu đãi thẳng cho người nghèo cũng rất cần thiết để giá cả vẫn theo thị trường mà không gây tác động quá lớn lên đời sống người dân nghèo. Cụ thể, Nhà nước có thể hỗ trợ bằng tiền để họ mua nước sạch, mua điện.
Một yếu tố lạc quan là quy luật giá thường tăng mạnh vào những tháng đầu năm và giảm dần vào những tháng cuối năm. Đây là cơ sở để TS Vũ Đình Ánh, Viện phó Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả, Bộ Tài chính cho rằng, nếu quy luật của diễn biến thị trường giá cả được duy trì, kết hợp với những chính sách kinh tế vĩ mô và quản lý thị trường giá cả hợp lý thì CPI cả năm có thể vẫn được duy trì ở mức 7%. Ngược lại, nếu một trong những điều kiện trên không được đảm bảo, CPI có thể vọt lên mức 12-15%.
Theo TS Phan Minh Ngọc, Phó giám đốc nghiên cứu Doanh nghiệp của Ngân hàng Sumitomo Mitsui chi nhánh Singapore, nguyên nhân gây ra lạm phát khá cao ở Việt Nam trong năm qua và có lẽ sẽ tiếp tục tăng lên hơn nữa trong năm nay là khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu không lớn, bất chấp xuất khẩu của Việt Nam đã sụt giảm mạnh, trong khi tỷ lệ thất nghiệp có lẽ không tăng đáng kể so với trước khi có khủng hoảng. So với rất nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng âm hoặc dương nhưng ở mức nhỏ, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 5% trong năm 2009. Điều này cho thấy tổng cầu không sụt giảm mạnh so với tổng cung tiềm năng ở Việt Nam. Mặt khác, tình trạng khan hiếm lao động, đặc biệt là lao động phổ thông hiện nay cũng cho thấy nạn thất nghiệp không trầm trọng thêm như nhiều người tin tưởng trước đây, tổng cầu không giảm nhiều và tỷ lệ thất nghiệp không tăng lên đáng kể ở Việt Nam có thể được coi như bắt nguồn từ những biện pháp nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ mạnh tay của Chính phủ, TS Ngọc phân tích. |