Kỳ nhân làng Ngọc (Phần cuối)
Truyện của TRẦN THANH CẢNH

03/10/2013 08:07

>> Kỳ nhân làng Ngọc (Phần 1)

>> Kỳ nhân làng Ngọc (Phần 2)

>> Kỳ nhân làng Ngọc (Phần 3)

Cán bộ chính trị mặt trận đi thẩm tra lý lịch về báo cáo cấp trên, trên thở dài cho hồ sơ kết nạp Đảng, phong anh hùng vào ngăn kéo đóng lại.

Bình đi báo cáo điển hình toàn quân suốt ba tháng, về đơn vị không thấy ho he gì về mấy việc chính ủy mặt trận đã công bố, hỏi chính trị viên đại đội nói không biết, hỏi tiểu đoàn cũng không trả lời, điên tiết, Bình lên thẳng chính ủy mặt trận hỏi cho ra lẽ. Chính ủy mặt trận nói: “Hành động của đồng chí là một hành động anh hùng, đáng ghi vào sử xanh. Nhưng lý lịch của đồng chí đen tối quá, không thể là một anh hùng được”.

Bình nóng mắt bảo chính ủy: “Việc tôi lập được chiến công có liên quan gì đến việc chơi gái. Công to thì phải được thưởng chứ, không thưởng xứng đáng thì tôi dí vào”.

Thế là Bình khoác ba lô về làng Ngọc. Trước đây, Bình đã từng tự thề với mình rằng, có chết cũng không thèm về làng Ngọc, nhưng bây giờ chả còn chỗ nào đi. Vả lại, người ta vẫn nói cáo chết ba năm quay đầu về núi.

Minh họa của Trung Dũng
Minh họa của Trung Dũng
Bình thường, hành động bỏ ngũ như vậy lập tức bị cho ra tòa án binh ngay, nhưng vì Bình vừa lập được một chiến công to nên đơn vị cũng nể, năm lần bảy lượt cho người về gọi nhưng Bình không lên. Sau, đơn vị cũng lờ đi, không ai nhắc nhở gì nữa.

Bình về làng, dựng lại mấy gian nhà tranh trên mảnh vườn xóm Trại khi xưa để ở. Không giấy tờ, không hộ khẩu, không ruộng đất, không là xã viên hợp tác xã… nhưng Bình cứ điềm nhiên sống ở làng Ngọc mà chả ai dám có ý kiến gì. Lúc đó vẫn đang chiến tranh, vả lại cái chiến tích vô tiền khoáng hậu của Bình đã loan khắp cả xã, cả huyện, cả tỉnh, cả nước rồi. Ai nhìn Bình khi đó cũng thấy như là Bình không phải người thường. Kỳ nhân Bình. Kỳ nhân làng Ngọc.

Chính trị viên huyện đội, đại úy Mai Nhàn bảo, thằng này đảo ngũ cũng nên, cho vệ binh vào bắt ra huyện đội xử lý. Chưa kịp bắt, việc đến tai Bình, Bình ra cổng huyện đội chửi: “Thằng Mai Nhàn, lúc bố mày vào sống ra chết trong chiến trường thì mày ở nhà sờ vợ. Tao thách cả huyện thằng nào dám ra trói tao”.

Mai Nhàn chả dại gì mà ra, lính tráng thì càng không, ông ấy nổi tiếng thế dại gì mà dây vào, không phải đầu lại phải tai.

Năm ấy Bình mới ngoài ba mươi tuổi, rắn rỏi, phong trần. Bình đi đến đâu cũng được dân tình ngưỡng mộ. Một em “dũng sĩ bèo hoa dâu” - danh hiệu thời đó trao cho chị em ở hậu phương đảm đang việc đồng áng, nuôi được nhiều bèo hoa dâu, cũng là góp phần đánh Mỹ - vừa tròn mười tám mê mẩn Bình lắm. Em đi sinh hoạt chi đoàn hàng đêm, nghe đọc về các gương chiến sĩ chiến đấu anh dũng ngoài chiến trường, thấy chưa ai được như anh Bình làng mình. Mỗi sớm tối em đi nuôi bèo hoa dâu ngoài cánh đồng xế bên xóm Trại, em lại ghé vào nhà Bình nghe chuyện chiến trường, rồi thì em mê đến độ không cả về nhà nữa, mà ở luôn nhà Bình, mặc gia đình can ngăn, chi đoàn phản đối. Thế là Bình lại có vợ, mà lần này là gái tân, trẻ, xinh hẳn hoi.

Lấy nhau xong rồi, vợ chồng Bình đẻ sòn sòn năm đứa con gái, chạy vạy nuôi ăn nuôi học chúng nó bạc hết cả mặt. Không có lương, không ruộng đất, hai vợ chồng làm đủ các nghề kiếm ăn, may là ở cái làng Ngọc, vốn là một làng có nghề buôn bán, nên cũng còn dễ kiếm miếng ăn. Bình thì từ thời thanh niên đã có một sức khỏe hơn người nên làm cái gì cũng mạnh hơn hẳn người khác. Lặn xuống sông Đuống bắt cá nheo trong hang dưới đáy sông, Bình cũng giỏi gấp năm lần trai làng.

Chiến tranh cũng qua đi. Những câu chuyện của thời chiến lùi dần về dĩ vãng. Nước Việt và cả cái làng Ngọc hết trải qua hợp tác xã chán rồi lại xẻ ruộng ra chia. Rồi kinh tế thị trường tràn về, trong câu chuyện bên bàn trà mỗi tối của các gia đình trong làng, là tiền, là hàng là đầu tư, là công ty, là lợi nhuận… chả ai còn có hứng thú nhắc lại chuyện chiến tranh. Năm đứa con gái nhà Bình được hưởng gene phong tình của cả bố lẫn mẹ nên toàn lấy chồng sớm, mới chỉ nhu nhú nứt mắt ra đã theo trai, dân làng Ngọc thì bảo là đĩ non. Nhà Bình lại chỉ còn độc hai vợ chồng ở với nhau, mà quái lạ, hai vợ chồng cách nhau mười mấy tuổi, Bình đã gần bảy mươi, vợ mới ngoài năm mươi nhưng cô dũng sĩ bèo hoa dâu năm xưa nay đã sạch mình. Cô đã thành bà vãi làng, hàng đêm, sau khi dọn dẹp xong nhà cửa, bà lên chùa làng đọc kinh cho thanh tịnh. Bình thì ngược lại, vẫn còn sung sức và dồi dào khí chất đàn ông, nhiều khi bức bối quá, đợi bà vợ già lên chùa về, ông lôi tuột bà lên giường. Bà vợ già nước mắt nước mũi chan hòa, vừa khóc vừa lạy ông chồng hổ báo của mình như tế sao: “Thôi tôi cắn rơm cắn cỏ tôi lạy ông. Ông tha cho tôi, tôi đã phục vụ ông mấy chục năm nay. Giờ tôi chả còn gì. Ông để yên cho tôi hầu cửa Phật…” Thế mà bà ấy cũng chả thoát. Sau này, bà ấy sợ quá phải bỏ đi ở với cô con gái lớn lấy chồng mãi Lao Cai mới yên thân. Ông Bình, ở một mình nên chán, sinh ra tật rượu chè. Có lẽ ông thừa hưởng cái gene của ông Ba Be nên uống khỏe lắm. Ông có thể ngồi uống rượu cả ngày, từ sáng tới đêm rồi lại từ đêm tới sáng. Mà cũng lạ, ông chả có chế độ hay lương lậu gì mà lúc nào cũng sẵn rượu uống. Ông chỉ bòn mót quanh vườn nhà hay đi mò cá dưới sông, thỉnh thoảng năm đứa con gái giấu giếm chồng con gửi cho bố một ít tiền. Thế là ông cũng đủ say sưa, rượu ở quê nấu bằng sắn khô rẻ mà. Dịp gần đây, ủy ban thấy ông cô đơn nên xếp vào diện hộ nghèo, sai thanh niên tình nguyện đến làm lại cho cái nhà, hàng tháng lại trợ cấp ít tiền, nên ông càng thoải mái say sưa.

Ngày xưa, các cụ đã bảo là rượu vào lời ra. Nay, ông Bình cũng vậy, rượu vào là ông hò hét tưng bừng, ông hô xung phong như hồi còn ngoài chiến trận, trong cơn say triền miên, mơ màng, ông như nhìn thấy những thân hình lính Mỹ nằm ngổn ngang trên sườn đồi, chất đống dưới chân đồi, mùi thuốc súng trộn lẫn với mùi máu tanh nồng, kinh quá. Có hôm ông lại thấy cảnh mình băng qua bãi chiến trường còn xác hàng trăm bộ đội, toàn lính trẻ măng vừa ngoài Bắc vào bị dính trận bom B52 nằm chết la liệt, không toàn thây ở phía bắc Kon Tum. Mùi máu trộn với mùi khói bom, rồi mùi da thịt bị bom napan đốt cháy khét lẹt, những mảnh xác người bị băm rời ra nằm vương vãi tứ tung, trộn lẫn với đất đá cây cối bị bom phạt đổ ngổn ngang, tất cả tạo ra một cảnh tượng kinh hoàng, như dưới địa ngục. Sao lúc ấy ông không thấy sợ gì nhỉ? Bây giờ nhớ lại, ghê quá, buồn nôn quá, ông thắt ruột lại, nôn khan. Không nôn được ra cái gì cả. Những hình ảnh kinh hoàng đã ngấm hết vào trong não ông từ lâu rồi, giờ đây, khi về tuổi xế chiều nó cứ lần lượt bật ra, sống động, như vừa mới hôm qua. Nhưng, cũng giờ đây ông mới thấy kinh hoàng. Nhiều người chết quá. Nhiều máu quá. Chỉ những chén rượu sắn pha cồn công nghiệp hắc xì giúp ông dìm những ký ức kinh hoàng ấy vào một lớp mây mù mờ ảo ảnh. Nhưng cái giống rượu ấy, uống vào nóng trong người lắm. Hôm nào nóng bức quá, ông lại khật khưỡng đi dọc làng Ngọc từ xóm Trại tít đầu đằng này đến xóm Đình ở đầu làng đằng kia để ra sông Đuống tắm. Ông bảo ông không thèm tắm đầm sen làm gì cho bẩn người, bây giờ chúng nó toàn đổ phân tươi xuống nuôi cá, kinh người. Ông phải ra sông bơi vài vòng mới đã. Một ông già rượu say bét nhè, tuổi hàng thất thập mà cứ bơi sông ùm ùm hàng ngày, hè cũng như đông, mãi không thấy chết đuối. Đúng là kỳ nhân. Mấy tay có vẻ thạo chữ trong làng lại gật gù như vậy.

*
*   *

Con sông Đuống chảy qua trước mặt làng Ngọc vốn có tên chữ là Thiên Đức. Con sông này nguyên là một nhánh của sông Hồng rẽ ra ở mạn Gia Lâm, Đông Anh rồi chảy về chỗ Lục Đầu hợp nước của bốn con sông khác thành sông Thái Bình. Bình thường, vào mùa nước cạn sông chỉ rộng vài trăm mét, nhưng đến mùa lũ, khi nước ngập cả hai bờ vỡ, tràn lên đến trên lưng chừng hai bên đê thì người ta mới thấy hết sức mạnh của Thủy Tinh, đúng như người xưa đã nói nhất thủy nhì hỏa. Những lúc đó, đứng trên mặt đê mà nhìn dòng nước mênh mang trải dài từ bờ đê bên này đến bờ đê bên kia rộng vài cây số, đỏ ngầu, gầm gừ, cuồn cuộn chảy mới thấy sức lực của con người thật nhỏ bé trước thiên nhiên. Dân vùng này vẫn truyền nhau rằng, ở dưới Lục Đầu, có cái xoáy nước kinh lắm, mùa lũ thuyền bè mà sa vào đấy thì chỉ nháy mắt là chìm nghỉm mất tăm tích ngay. Những người nặng căn quả, bị Hà Bá Diêm Vương gọi về chầu cũng bị cuốn xuống Lục Đầu, người nhà có cầu cúng thế nào cũng không nổi xác lên. Thế mà kỳ nhân Bình, bơi trên dòng nước lũ cứ nhẹ tênh tênh, có lẽ, mấy chục năm qua kiếm ăn bên dòng sông đã cho kỳ nhân Bình hiểu từng xoáy nước, từng dòng chảy. Có lúc lũ to trên nguồn đổ về, kỳ nhân Bình còn bơi ra kéo vào được cơ man nào là gỗ, bán được ối tiền, tha hồ rượu. Rượu say sưa nóng trong người lắm nên kỳ nhân Bình lại đi dọc làng, ra sông bơi. Chả hiểu thế nào, một hôm lại rẽ nhầm vào khu vườn nhà ông lý Lưu xưa.

Bà lý Lưu đã chết từ lâu, chỉ còn mỗi cô Ngơ ở mấy gian nhà xưa trong cái khu vườn rộng um tùm cây trái, cái vườn ấy, cũng đủ cung cấp cho người đàn bà không chồng không con một cuộc sống tàm tạm. Câu chuyện buồn thời hoa niên của cô và Bình, cả làng Ngọc quên lâu rồi, chính cô và Bình cũng chả còn nhớ nữa, thời gian luôn là phương thuốc thần diệu xóa nhòa mọi thứ. Cái lúc nhìn thấy lão già cởi trần đỏ như tôm luộc mà râu tóc bạc phơ đi vào nhà mình, cô Ngơ cũng chả thấy có gì lạ lẫm, cô đi vào nhà rót cho lão ấy bát nước vối rồi bảo lão ấy ngồi xuống thềm mà uống cho khỏi sặc. Nhìn lão già uống bát nước vối ừng ực như chó khát uống nước gạo, cô Ngơ bỗng thấy buồn cười, mà cô cười vẫn xinh đáo để, già vẫn xinh. Năm nay cô dễ cũng đến gần bảy mươi. Cái lão già ấy hỏi: “Bà còn nhớ tôi không?” thì cô chỉ cười. Cái lão ấy lại bảo: “Bà tha lỗi cho tôi nhé?” Cô cũng chỉ cười, và khi cái lão già phải gió ôm lấy cô, bế cô vào trong gian buồng thì cô lại thấy buồn buồn nhồn nhột khắp cả người.

Mấy hôm sau, kỳ nhân Bình dọn về ở với cô Ngơ. Cả làng Ngọc lại được một phen râm ran bàn tán. Một lão già suốt ngày say rượu về ở với một bà ngẩn ngơ. Thật đúng là nhân duyên trời định, không lường được.

Đôi bồ cu già - đấy là dân làng gọi thế - cứ rúc rích ở với nhau trong mảnh vườn xưa. Kỳ nhân Bình vẫn uống rượu đều, nhưng không còn hò hét nữa. Cô Ngơ vẫn đi chợ, nhưng cô không “buôn bán đảm đang” nữa. Cô chỉ đi bán hoa quả trong vườn và cá mú ông Bình kiếm được dưới sông, để mua rượu. Lúc cao hứng, ông Bình lại đọc cho cô Ngơ nghe thơ. Ông bảo đấy là “Thiền thơ” do một tay lãng tử truyền cho, chỉ độc một bài:

Kìa trông Hán Sở tranh hùng
Quân kỳ ca khúc điệp trùng nơi nơi
Trông gần chính nghĩa sáng ngời
Trông xa chỉ một lũ người giết nhau(*).

Cái giọng khê nồng nhão ra vì rượu chiều nào cũng ngâm nga mỗi bài ấy cho người tình già nghe. Cô Ngơ ngồi, phe phẩy cái quạt ở bên cạnh, thỉnh thoảng lại thấy tủm tỉm cười, nghe chừng hạnh phúc…

Bọn trẻ ranh trong làng rỗi hơi, lắm hôm tò mò chui vào cái vườn rậm rạp nhòm trộm, rồi ra quán bia cỏ cười sằng sặc với nhau: “Đôi ấy già mà yêu nhau phê lắm nhé, rên cứ ồ ồ như trâu rống”.

Một ngày giữa mùa nước lũ, nhưng trời nóng lắm, cô Ngơ bảo kỳ nhân Bình: “Ông ơi. Ông đưa tôi ra tắm sông với, mùa này nước phù sa mới mát lắm”.

Chiều tối, đôi nhân tình già đưa nhau ra bờ sông. Dòng sông đang lên nước lấp xấp bờ vỡä, đỏ ngầu phù sa cồn cào chảy về phía Lục Đầu. Bầu trời phía tây đằng xa đang nhay nháy những tia chớp, theo kinh nghiệm của các cụ truyền lại thì đấy là trên nguồn đang mưa lớn, nay mai, nước sẽ lên to. Kỳ nhân Bình dìu cô Ngơ ra giữa dòng sông bằng một cây chuối chặt ở vườn nhà, như ngày xưa lúc còn trẻ rủ nhau đi tập bơi.

Mấy ngày sau, mấy tháng sau cả làng cũng chả nhìn thấy đôi bồ cu già ấy đâu nữa. Dọc theo triền sông về mãi mạn Lục Đầu, dân làng đi tìm cũng chả thấy nói có xác người nào chết trôi dạt vào. Dân làng Ngọc bảo, có lẽ kỳ nhân Bình và cô Ngơ, nặng căn quả nên bị Hà Bá Diêm Vương dưới Lục Đầu bắt về làm quân hầu rồi.
 ___________
(*) Thơ Nguyễn Bảo Sinh

    Nổi bật
        Mới nhất
        Kỳ nhân làng Ngọc (Phần cuối) <br><i>Truyện của</i> TRẦN THANH CẢNH
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO