“Càng làm càng lỗ”
Các bất cập của các định mức xây dựng và các đơn giá do địa phương ban hành khiến nhà thầu “càng làm càng lỗ” đã được phản ánh cụ thể tại hội nghị.

Theo ông Phùng Tiến Thành, Phó Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Đèo Cả, hiện nay, định mức xây dựng áp dụng theo Thông tư 12/2021/TT-BXD của Bộ Xây dựng ban hành ngày 31.8.2021. Tuy nhiên, nhiều định mức không phản ánh đúng hao phí thực tế trên công trường, định mức mới có xu hướng cắt giảm so với định mức cũ. Ví dụ, thi công móng cấp phối đá dăm trước đây định mức hao phí vật liệu là 1,42m3 đá/1m3 móng hoàn thiện, đến Thông tư 12 thì hao phí vật liệu chỉ còn 1,34m3 đá/1m3. Như vậy, hao phí vật liệu để hoàn thiện 1m3 móng cấp phối đá dăm đã giảm, trong khi hao hụt thi công theo định mức vật liệu là không đổi. Hoặc, việc tận dụng đá để đắp nền đang áp dụng ở rất nhiều dự án trọng điểm, nhưng định mức đắp đá và hệ số lu lèn vẫn chưa được ban hành.
Đơn giá nhân công do các địa phương ban hành cũng bất cập. “Theo đơn giá của địa phương, giá nhân công các bậc chỉ khoảng 200 - 300 nghìn đồng/ngày. Trong khi thực tế thị trường lao động phổ thông, chưa qua đào tạo cũng đã 400 - 500 nghìn/ngày. Ngày nghỉ, ngày lễ phải nhân đôi, nhân ba nhưng không có định mức, dự toán nào tính cho”, đại diện Tập đoàn Đèo Cả phản ánh.
Bên cạnh đó, bộ định mức hiện nay còn thiếu nhiều dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng khi lập dự toán và nghiệm thu, thanh toán, quyết toán. “Điển hình như dự án Quảng Ngãi - Hoài Nhơn chúng tôi đang thi công, hạng mục đắp đá, đắp đất lẫn đá chưa có định mức để áp dụng nhà thầu phải tạm thanh toán theo đơn giá đắp đất ảnh hưởng lớn đến công tác thu hồi vốn và tài chính của nhà thầu. Chúng tôi đã rà soát từ thực tế các dự án đang triển khai và có văn bản gửi Cục Quản lý đầu tư xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải kiến nghị về 30 định mức mới cần bổ sung”.
Đại tá Nguyễn Tuấn Anh, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn, cho biết, cùng với giải phóng mặt bằng thì các vấn đề định mức, đơn giá, vật liệu là nóng nhất hiện nay, ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Chia sẻ những vướng mắc của Đèo Cả, ông Tuấn Anh nhấn mạnh, bất cập trong định mức thi công cấp phối đá dăm “rất nhức nhối, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của nhà thầu”. Cùng với đó, ông bổ sung bất cập trong dự toán vận chuyển vật liệu đổ đi. Cụ thể, khi hậu kiểm, các cơ quan thanh tra, kiểm tra yêu cầu phải lấy loại xe cho ra dự toán thấp nhất để điều chỉnh dự toán (dùng xe tải trọng lớn, đi ít chuyến - PV). Nhưng thực tế, do vướng mặt bằng, đa số dự án không thể vận chuyển nội tuyến theo hồ sơ thiết kế mà phải sử dụng đường vòng, đường địa phương - những đường này yêu cầu xe tải trọng thấp chỉ 8 - 10 tấn. Vì vậy, chi phí vận chuyển chênh rất lớn với xe 20 tấn.
Nhiều vướng mắc khi thực hiện cơ chế đặc thù
Đặc biệt, theo phản ánh tại hội nghị, thời gian qua, nhà thầu rất vất vả trong việc thực hiện các thủ tục cấp phép khai thác mỏ theo cơ chế đặc thù. Thực tế các thủ tục từ lúc lập đến khi cấp phép khai thác kéo dài khoảng 8 tháng, nguyên nhân do chưa có hướng dẫn rõ ràng từ đầu, các địa phương hiểu, áp dụng khác nhau theo hướng an toàn, thận trọng, dẫn đến thủ tục kéo dài.
Đến nay vẫn còn vấn đề lớn là xác định giá vật liệu tại mỏ theo cơ chế đặc thù. Hiện nay nhiều đầu mục chi phí nhà thầu trực tiếp thực hiện để khai thác mỏ vật liệu chưa được hướng dẫn cụ thể để làm cơ sở giám sát, nghiệm thu như: chi phí giám sát, thẩm định, phê duyệt phương án xây dựng, khai thác mỏ; đền bù cây trồng, hoa màu, tài sản trên đất; đào bóc tầng phủ; đường tiếp cận mỏ; rà phá bom mìn… Đặc biệt, nhà thầu phải tự thỏa thuận, đền bù đất và tài sản trên đất mỏ với các chủ sở hữu, người dân nên rất khó khăn và kéo dài.
“Tiến độ thi công dự án 2 đến 3 năm do thi công trên vùng xử lý nền đất yếu phải chờ thời gian gia tải từ 8 đến 14 tháng. Tuy nhiên, thủ tục cấp mỏ vật liệu hàng năm chưa xong. Ký hợp đồng xong nhà thầu phải thi công rồi, mà tiến độ khai thác mỏ như vậy thì không bảo đảm tiến độ dự án”, Đại tá Nguyễn Tuấn Anh, Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn nói.
Hơn nữa, cùng do vướng mắc trong xác định giá vật liệu tại mỏ nên các chủ đầu tư và ban quản lý dự án chỉ tính cho các nhà đầu tư 70% đơn giá theo hợp đồng. Điều này khiến nhà thầu khó khăn về nguồn vốn thi công và còn tiềm ẩn rủi ro về vấn đề hậu kiểm, do đây là các công trình chỉ định thầu.
Sẽ ban hành, điều chỉnh gần 900 định mức
Tại hội nghị, Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông Vận tải đã thống nhất, việc quản lý, ban hành định mức, đơn giá xây dựng; xác định giá vật liệu xây dựng thông thường và giá vật liệu xây dựng thông tường tại mỏ giao cho nhà thầu thi công khai thác theo cơ chế đặc thù. Theo đó, Bộ Xây dựng thực hiện theo thẩm quyền hoặc tham mưu cấp có thẩm quyền, ban hành phương pháp xác định định mức, đơn giá xây dựng; phương pháp xác định giá vật liệu xây dựng thông thường hoặc phương pháp xác định giá vật liệu xây dựng khai thác tại mỏ theo cơ chế đặc thù.
Đồng thời, rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới định mức, đơn giá xây dựng sử dụng chung cho các công trình xây dựng; theo dõi, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương ban hành các định mức chuyên ngành, đặc thù theo thẩm quyền.
Năm 2021, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 12/2021/TT-BXD ngày 31.8.2021 về việc ban hành định mức xây dựng, trong đó cập nhật, bổ sung 989 mã định mức. Dự kiến trong quý I.2024 Bộ Xây dựng sẽ ban hành bổ sung 318 định mức theo thẩm quyền. Cùng với đó, tiếp tục rà soát, ban hành bổ sung các định mức còn thiếu hoặc không phù hợp do công nghệ, điều kiện thi công thay đổi hoặc do vật liệu xây dựng mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong hoạt động đầu tư xây dựng.
Về phía Bộ Giao thông Vận tải sẽ ban hành mới và điều chỉnh bổ sung 547 định mức dự toán công trình trong quý I.2024.
Liên quan đến việc xác định giá vật liệu xây dựng khai thác tại mỏ theo cơ chế đặc thù, hai Bộ đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát kỹ lưỡng quy trình giao mỏ cho nhà thầu theo đúng yêu cầu của Công điện số 02/CĐ-TTg. Các địa phương theo trách nhiệm, thẩm quyền phối hợp với chủ đầu tư dự án tổ chức xác định đúng, đầy đủ các chi phí đối với vật liệu xây dựng khai thác tại mỏ theo quy đinh. Bộ Xây dựng rà soát, điều chỉnh, bổ sung phương pháp xác định giá vật liệu xây dựng tại mỏ.