Kịch tác gia và ông chủ xuất bản Vũ Đình Long
Nói đến Vũ Đình Long (1896 - 1960), tôi muốn nhấn mạnh 2 đóng góp lớn của ông cho tiến trình hiện đại hóa. Đó là tác gia kịch nói đầu tiên trong lịch sử sân khấu Việt Nam, và người góp công lớn tổ chức nên thị trường văn chương, trong tư cách ông chủ báo, chủ xuất bản.
>> Người khai mở hoạt động báo chí, xuất bản
Ở tuổi 25, Vũ Đình Long đã xuất hiện như một gương mặt tác gia sáng giá với hai vở kịch nói: Chén thuốc độc (in trên Hữu thanh, 8.1921, diễn lần đầu tại Nhà hát Lớn Hà Nội, 22.10.1921) và Tòa án lương tâm (Nghiêm Hàm xuất bản, 1923). Hai vở kịch đã làm nên cuộc cách tân quan trọng, đưa sân khấu dân tộc chuyển vào con đường kịch nói, với diện mạo mới, theo mô hình phương Tây, để từ nay, bên tuồng cổ lại có thêm kịch kim.
Đây là hai vở kịch nói Việt Nam đầu tiên được công diễn; trước đó, ở Nhà hát Lớn Hà Nội chỉ diễn một số vở kịch Tây như Bệnh tưởng, Trưởng giả học làm sang của Molière, với dàn diễn viên là các trí thức ở đẳng cấp cao như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Huy Lục... Cũng cần nói thêm, việc diễn kịch là nhằm làm việc thiện, như quyên góp giúp dân bị lụt, giúp trẻ mồ côi, chứ không phải là hoạt động có tính chuyên nghiệp.
Cố nhiên, do là kịch bản của tác giả Việt Nam, lấy đề tài trong sinh hoạt thành thị Việt Nam, viết bằng lời văn Việt Nam, nên xét trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật, hai vở kịch của Vũ Đình Long vẫn chưa thoát ra khỏi các dấu ấn giao thời. Về nội dung, vẫn là sự phê phán lối sống tư sản hóa trên lập trường đạo đức cũ. Về nghệ thuật, vẫn phải mượn các sự cố ngẫu nhiên để giải quyết các tình huống kịch; và nhân vật còn thiếu sự sống tâm lý và thiếu các nét dáng chân thực trong tính cách và số phận.
Thế nhưng tên tuổi Vũ Đình Long không chỉ gắn với hai vở kịch chắc chắn đã có ngôi vị trong văn học sử. Từ giữa những năm 1920, khi còn là công chức của Nha học chính Đông Dương, Vũ Đình Long đã quan tâm đến hoạt động in ấn và xuất bản. Năm 1925, Vũ Đình Long mở hiệu sách và lập nhà in Tân Dân ở 93 Hàng Bông, Hà Nội. Đến 1930 nhà in Tân Dân chính thức khánh thành với số vốn ban đầu chỉ 800 đồng Đông Dương và trên dưới 30 công nhân. Đến 1936, Vũ Đình Long thôi hẳn công việc ở Nha học chính Đông Dương để trở thành ông chủ Tân Dân. Lần lượt và xen kẽ, ông cho ra đời nhiều tờ báo lớn có khả năng lấn át và bóp chết nhiều loại báo đàn em. Đó là Tiểu thuyết thứ bảy (1934 - 1942) ra hàng tuần, 60 trang, giá 5 xu - Nguyễn Công Hoan sợ không bán được nhưng hóa ra rất chạy; Ích hữu (1937 - 1938) cũng ra hàng tuần, là tờ chuyên văn học, gồm nhiều mục hấp dẫn và nhiều minh họa; tạp chí Tao đàn (1939), ra hàng tháng, giá 25 xu; Tủ sách Truyền bá cho thiếu nhi (1941 - 1943) 30 trang, 30 xu... Không kể ông còn cho ra không đều kỳ các loại: Sách học, Quốc âm dẫn giải, Những tác phẩm hay... Ấn phẩm gồm sách, báo của Vũ Đình Long có đại lý ở khắp Đông Dương, với tỷ lệ hoa hồng từ 8 - 10%, quan hệ giữa chủ và các đại lý hòa thuận, sức tiêu thụ các sản phẩm khá nhanh.
![]() Nguồn: hanoimoi.com.vn |
Có thể nói, ngoài “thất tinh”, hoặc “bát tú” của Tự lực văn đoàn, cùng một số tên tuổi chịu ảnh hưởng của họ khoảng trên chục cây bút, thì gần như số lớn nhà văn tự do hồi 1930 - 1945 đều tự nguyện tập hợp hoặc tìm đến ông chủ Tân Dân. Kể cả những người không thuộc nhóm nào như Trương Tửu, Nguyễn Vỹ... cũng không ác cảm với Tân Dân. Tân Dân không phải là một “văn phái”, vì các xu hướng viết ở đây rất khác nhau; một số cây bút cao giá không chỉ viết cho Tân Dân mà còn viết cho các báo khác, mặc dầu đó là điều Vũ Đình Long không muốn và vẫn tìm cách ngăn cản. Có sức tập hợp đó vì ông chủ họ Vũ đã biết phát huy những mặt mạnh trong khả năng tổ chức và trong quan hệ ứng xử. Khá nhạy bén trong việc phát hiện các nhu cầu của thời cuộc và khả năng đáp ứng thời cuộc, ông đưa ra được các giải pháp kịp thời, mẫu mã thích hợp. Trong mặt thuận, mặt tích cực của nó, những người viết văn như một lực lượng lao động tự do đã có chỗ làm, có nhiều việc làm trên các tờ báo và các đầu sách do ông chủ nhà Tân Dân chủ trương. Bao giờ mà chẳng thế, người viết cần viết và được kích thích viết khi có chỗ in, để kiếm sống hoặc để kiếm danh! Và cố nhiên, mặt trái, mặt tiêu cực của nó, đó là khả năng khai thác, kén chọn của thị trường lao động chất xám để có thể kiếm lãi và làm giàu. Có điều trong các tài liệu được đọc, tôi chưa thấy nhà văn nào nói về lòng tham và sự bóc lột quá đáng của Vũ Đình Long. Chỉ thấy nói đến cách ông trả nhuận bút khá sòng phẳng; cách ông xử sự khá lịch thiệp, rộng rãi với người viết mà ông tin cậy; cách ông không thất tín với người viết, với các đại lý và với các công nhân.
Dẫu vậy, câu chuyện về cuộc “biểu tình” hòa bình của một nhóm nhà văn gồm Trương Tửu, Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Ngọc Giao và Vũ Trọng Phụng - lúc này đã rất yếu và vào thời kỳ cuối của bệnh lao - xuất phát từ nhà Trương Tửu ở phố Tiên Sinh (nay là phố Hàng Gà) kéo lên phố Hàng Bông để đòi tăng nhuận bút từ tám hào lên một đồng hai, cho một trang bản thảo gồm 32 dòng, mỗi dòng 14 chữ... lại cho thấy cái hiện tượng khó có thể nói khác hơn là sự bóc lột, vì có bóc lột thì có đấu tranh. Thế nhưng không khí đấu tranh xem ra không quá căng, ông chủ đã dễ dàng nhượng bộ, và người “biểu tình” ra về vui vẻ.
Cố nhiên, những người viết văn ở xứ ta, số lớn đều nghèo, nên ai cũng không khó khăn nhận ra và chấp nhận cách thức đối phó của một người có giác quan khá nhạy bén trong trường cạnh tranh làm giàu. Chẳng hạn ai đã đến với Vũ Đình Long thì không được viết cho các báo khác; nhưng sự thật thì nhiều người vẫn viết cho nhiều tờ. Sự trả công của ông là tùy mặt; ai có tiếng và được khách thì ông trả cao; có người ông trả ít, có người ông không cần phải trả bởi được ông in cho đã là vui rồi. Nguyên tắc ai giao thiệp với ông thì chỉ người ấy biết, còn họ không phải biết gì về nhau. Là ông chủ có cái nhìn xa, ông biết cách chiêu mộ và trọng đãi người tài, ngay cả khi họ chưa nổi danh; biết cách tích trữ bản thảo để luôn luôn có vốn bản thảo tung ra thị trường khi khan hiếm, khi cần đến hoặc khi có dịp; biết cách sử dụng lao động trong nhiều dạng loại (làm công ăn lương trong “biên chế” tòa soạn như Ngọc Giao, nhận thầu như Vũ Bằng, hoặc định kỳ mua bản thảo cho số đông người viết có tên tuổi) và biết cách trả công theo giá trị của sản phẩm để sao cho việc chi ít có thể đem lại thu nhiều. Trong quan hệ với các nhà văn, ông có những cách chơi riêng. Chẳng hạn với Nguyễn Công Hoan, thuộc số cộng sự ông tin cậy và nể trọng, người mà số lớn đầu sách quan trọng như Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Kép Tư Bền, Cô giáo Minh... đều được đăng liên tiếp trên Tiểu thuyết thứ bảy hoặc Phổ thông bán nguyệt san, đã có lần bị ông dụ vào việc ký hợp đồng, để suốt đời ràng buộc với ông. Cố nhiên, Nguyễn Công Hoan đã không khó khăn tránh được cái bẫy ấy. Thế nhưng việc nhà văn hỏi vay tiền thì ông không bao giờ từ chối; thậm chí ông còn hào phóng nhận trả góp cho nhà văn món nợ 1000 đồng; món tiền lớn này cho mãi đến sau 1945, Nguyễn Công Hoan vẫn mới chỉ trả được hơn một nửa; và đã được Vũ Đình Long bằng lòng xóa nợ sau 1954.
Qua giới thiệu của Nguyễn Công Hoan, ông biết “chọn mặt gửi vàng” nơi Tô Hoài, để có Con Dế Mèn và tiếp đó là Dế Mèn phiêu lưu ký; và sau khi Tô Hoài đã quen biết và biết cách “viết như chạy thi”, đã có sự tin cậy để hàng tháng đến Tân Dân nhận tiền và giao bản thảo, ông biết đón cả Nam Cao - thường đi kèm Tô Hoài, lúc này đang là cây bút mới, còn rất rụt rè...
Không chỉ làm báo, in tiểu thuyết, Vũ Đình Long còn mạnh dạn mở rộng sự kinh doanh sang địa hạt phê bình. Bộ sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan gồm 4 quyển, 5 tập, trên 1.500 trang cũng được in ở nhà Tân Dân ròng rã ngót 4 năm theo sự tính toán rất thực tế của Vũ Đình Long, và tất nhiên với sự thỏa thuận của tác giả.
Trong công việc kinh doanh, Vũ Đình Long cũng không quên mở rộng quy mô nhà in và trang bị mới kỹ thuật in ấn. Từ 1937 ông phá nhà in cũ, xây nhà in mới, mua chữ mới, máy mới ở Pháp để phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh và lấn át nhiều nhà in đương thời như T.B Cay (Hoa kiều) ở Sinh Từ, Minh Sang ở Bờ Hồ, Ngô Tử Hạ ở Nhà Thờ, Văn Hồng Thịnh và Lê Văn Tân ở Hàng Bông... Số công nhân làm việc ở Tân Dân từ ba chục có lúc lên đến vài trăm người. Mô hình Vũ Đình Long theo đuổi là Editions Flammarion và Librairie Hachette ở Pháp. Từ số vốn ban đầu 800 đồng cho đến khi phát triển thành ông chủ, Vũ Đình Long đã có tài sản lớn, chỉ riêng máy móc đã có giá 1 triệu 20 vạn đồng.
Nếu biết rằng, trước 1930, việc in sách thường do tác giả tự lo, trong tư cách nhà xuất bản tư nhân, thì mới thấy trên 10 năm hoạt động, ở tư cách chủ bút, chủ xuất bản, Vũ Đình Long đã làm nên sự nghiệp lớn - góp công tổ chức nên thị trường văn chương sôi động vào những năm ba mươi của thế kỷ XX; đã cho ra đời khối lượng khổng lồ tác phẩm gồm nhiều loại, với nhiều khuynh hướng sáng tác và với nhiều thang bậc giá trị. Tất nhiên, đây là thời của xã hội thuộc địa, trong khuôn khổ của một nền báo chí và xuất bản rất có giới hạn, những hoạt động ở tư cách ông chủ của Vũ Đình Long gồm cả hai mặt, nhưng mặt tích cực vẫn là căn bản.