“Trái ngọt” từ những “dấu chân mở đường”
Khu công nghiệp (KCN) An Phát 1 quy mô 180ha tại các xã Quốc Tuấn, An Bình và An Lâm (Nam Sách, Hải Dương) được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đầu năm 2021. Ngay từ khi thành lập, KCN được xác định trở thành kiểu mẫu và tiên phong ở Hải Dương áp dụng bộ tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội và quản trị). “Quyết định này có phần mạo hiểm bởi thời điểm đó tiêu chí ESG vẫn mới mẻ, chưa phải là yêu cầu bắt buộc với các doanh nghiệp tại Việt Nam”, ông Phạm Văn Tuấn, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn An Phát Holdings, chia sẻ.
Cụ thể, để bảo đảm tiêu chí E - môi trường, tập đoàn yêu cầu các nhà xưởng phải xây theo hướng xanh và sạch, có hệ thống xử lý rác thải, khí thải và nguồn nước đạt chuẩn; diện tích trồng cây xanh cao hơn tiêu chuẩn. Với tiêu chí S - xã hội, tập đoàn chú trọng phát triển giáo dục, y tế và an sinh địa phương, mở ra cơ hội việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Với tiêu chí G - quản trị doanh nghiệp, tập đoàn đẩy mạnh việc cung cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, chất lượng cao cùng dịch vụ một cửa giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư. Nhờ đó, KCN An Phát 1 đã trở thành một trong những “át chủ bài” thu hút vốn đầu tư tại tỉnh Hải Dương.
Nếu như KCN An Phát 1 được xác định theo hướng sinh thái ngay khi thành lập, thì KCN Nam Cầu Kiền (Hải Phòng), do Công ty CP Shinec làm chủ đầu tư, lại trở thành một trong những điển hình của việc chuyển đổi từ KCN truyền thống sang KCN sinh thái từ năm 2019.
Báo cáo Phát triển bền vững ESG do Pwc - 1 trong những đơn vị kiểm toán lớn nhất thế giới, lập và công bố, cho thấy những nỗ lực và kết quả nổi bật trong việc chuyển đổi theo mô hình sinh thái tại KCN Nam Cầu Kiền tính đến cuối tháng 4.2024. Theo đó, đã có hơn 1 triệu cây xanh được trồng tại đây, chiếm 33% diện tích đất KCN. Hệ thống quan trắc nguồn thải tự động, liên tục, truyền dẫn thông tin về Sở Tài nguyên và Môi trường Hải Phòng 24/24 giờ tất cả các ngày trong tuần. 81,4kWh điện mặt trời áp mái được đưa vào sử dụng. 25% lượng nước thải sau xử lý được dùng để tưới cây, rửa đường, tiết kiệm 6 tỷ đồng mỗi năm chi phí mua nước sạch. 65% hệ sinh thái được phục hồi sau khi mô hình KCN sinh thái được áp dụng triệt để…
Đặc biệt, trong KCN Nam Cầu Kiền đã hình thành 3 chuỗi cộng sinh công nghiệp theo mô hình kinh tế tuần hoàn (ngành luyện kim - cơ khí; nhựa và các sản phẩm từ nhựa; phụ trợ điện - điện tử), mang lại giá trị lớn cho doanh nghiệp. Từ năm 2021, đến nay, các doanh nghiệp trong KCN này đóng góp ngân sách trên 1.000 tỷ đồng/năm. Hiện, Công ty CP Shinec đang nhân rộng mô hình kinh doanh khu, cụm công nghiệp sinh thái trên cả nước với tổng quy mô quỹ đất 3.500ha.
Cũng tại Hải Phòng, KCN Deep C đang không ngừng nỗ lực để trở thành KCN sinh thái với hệ thống công trình xanh gồm tòa nhà phức hợp được thiết kế đạt chuẩn LEED nhằm giảm năng lượng tiêu thụ, tối đa hóa việc sử dụng ánh sáng tự nhiên. Deep C đặt mục tiêu đạt 30% năng lượng tái tạo vào năm 2030. Ngoài ra, KCN này đã chuyển đổi 135.800m2 đất thành khu "Wetland" với diện tích mặt nước chiếm 43,5% và khu vực xanh chiếm 56,5%, nhằm hạn chế các tác động làm mất cân bằng hệ sinh thái do hoạt động công nghiệp. Năm 2023, 15 khách hàng trong KCN Deep C đã thực hiện các giải pháp trong Chương trình Hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP), qua đó tiết kiệm được 5,8 triệu kWh điện, 90 nghìn mét khối nước và giảm 10.588 tấn CO2 tương đương…
Quan trọng hơn, thành công bước đầu từ Nam Cầu Kiền hay Deep C đang tạo ra phong trào chuyển đổi sang mô hình KCN sinh thái ở thành phố cảng, như KCN Nam Đình Vũ đã thuê tư vấn để chuyển đổi, ông Bùi Ngọc Hải, Phó trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Hải Phòng xác nhận.
Còn nhiều chông gai
Dù vậy, nỗ lực cho mục tiêu phát triển xanh đối với các KCN không phải chuyện dễ dàng. Đặt nhiều kỳ vọng vào việc tới đây, khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành thông tư hướng dẫn chứng nhận KCN sinh thái, thành phố sẽ có 2 KCN khả năng cao trở thành KCN sinh thái đầu tiên tại Việt Nam là Nam Cầu Kiền và Deep C, song ôngHải vẫn canh cánh những mối lo - mà nếu giải quyết được sẽ thúc đẩy sự phát triển các KCN sinh thái trên cả nước.
Cụ thể, tỷ lệ đất cây xanh, hạ tầng sử dụng chung tối thiểu của KCN sinh thái phải đạt 25% tổng quỹ đất của KCN, trong khi với KCN bình thường chỉ là 21%. Đây là thách thức đầu tiên, không dễ gì các chủ đầu tư KCN sẵn sàng chấp thuận. Bên cạnh đó, KCN sinh thái phải có ít nhất 1 cộng sinh công nghiệp, tức sử dụng chung hạ tầng như hệ thống cấp hơi, hệ thống cấp điện; chất thải của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh nghiệp kia. Tuy vậy, ban đầu, rất khó để các doanh nghiệp tin tưởng lẫn nhau và đầu tư chung hạ tầng, thực hiện cộng sinh.
Hơn nữa, đầu tư cho KCN sinh thái đòi hỏi nguồn vốn lớn, trong khi điều kiện, thủ tục cho vay còn phức tạp, cản trở khả năng tiếp cận của doanh nghiệp. Trong khi đó, hiện vẫn thiếu hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn để sử dụng cho KCN sinh thái, như quy chuẩn xây dựng, quy chuẩn về tái sử dụng chất thải với quan điểm chất thải là tài nguyên…
Dù khẳng định tính hấp dẫn của KCN sinh thái trong mời gọi đầu tư, song ông Bruno Jaspaert, Tổng Giám đốc KCN Deep C cho rằng, đó là một công việc rất gian nan. “Vấn đề lớn nhất là Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng nhưng pháp luật lại chưa theo kịp tốc độ đó. Chẳng hạn, để xin được giấy phép thi công lắp đặt cột điện gió, chúng tôi đã phải mất 3 năm vì Việt Nam chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật về lắp đặt cột điện gió trong KCN”, ông nói. Do vậy, ông Bruno đề xuất, đầu tiên, Việt Nam cần cải thiện hệ thống pháp lý. Tiếp đến, cần đào tạo cho cán bộ quản lý kỹ thuật ở cấp tỉnh hiểu được các yêu cầu kỹ thuật của một KCN sinh thái.
Nêu bật sự khác nhau giữa đầu tư thông thường và đầu tư bền vững là vấn đề thời gian, Tổng giám đốc Deep C nhấn mạnh, để thu hút đầu tư vào KCN sinh thái, cách tốt nhất là Chính phủ có thể xem xét cấp ưu đãi cho các nhà đầu tư hạ tầng KCN. Đó là gia hạn thời gian dự án lên 70 năm thay vì 50 năm như hiện nay, giúp các nhà đầu tư có thời gian phân bổ chi phí khấu hao dài hơn.