Không thể tranh tụng khi không có đối tượng để tranh tụng
Dự thảo Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi) có quy định việc tham gia tố tụng hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Thực tế có rất nhiều vụ kiện hành chính, bên kiện là cơ quan, tổ chức hành chính, nhưng trong quá trình xét xử thường có đơn xin xét xử vắng mặt, thậm chí vắng mặt cả trong những phiên đối thoại hay trong buổi lấy lời khai của Tòa án. Việc vắng mặt của bên bị kiện là cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước đã làm cho quá trình xét xử gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong giai đoạn thẩm vấn Hội đồng xét xử cũng như bên đi kiện không có cơ hội để làm sáng tỏ những tình tiết quan trọng. Nếu những tình tiết này qua thẩm vấn được sáng tỏ thì có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất vụ việc và kết quả của phiên tòa đạt được chất lượng, sự thật khách quan được chứng minh, đem đến sự công bằng và hạn chế sai sót.
Pháp luật hiện hành, đặc biệt trong Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Nếu thiếu một bên trong phiên tòa thì việc tuân thủ nguyên tắc tranh tụng đã bị khiếm khuyết. Không thể nào thực hiện việc tranh tụng khi không có đối tượng để tranh tụng. Vì vậy, riêng đối với chủ thể là cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước, theo tôi phải có những quy định hợp lý và nghiêm ngặt hơn để buộc các cơ quan, tổ chức này phải tuân thủ pháp luật cũng như các quy định về nghĩa vụ và nhiệm vụ tham gia tố tụng hành chính. Đề nghị Ban soạn thảo biên tập thêm một khoản nữa trong Điều 29, chủ thể bị điều chỉnh trong khoản này là những cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính nhà nước với ý chính trong trường hợp thiếu bên bị kiện do vắng mặt thì phải chịu bất lợi và mất quyền phản đối với những chứng cứ, tình tiết, sự kiện bên đi kiện đưa ra hoặc đã có trong hồ sơ. Trường hợp có ủy quyền mà người được ủy quyền không thể tham gia phiên họp, phiên tòa, cơ quan, tổ chức đó phải thay thế ngay người nhận ủy quyền trong một thời hạn hợp lý nhất định, bảo đảm hoạt động xét xử tại Tòa án kịp thời, đúng pháp luật.
Cũng theo nguyên tắc tranh tụng, các ý kiến của bên này nêu ra, bên kia có quyền được tranh luận, đưa ra các luận cứ và chứng cứ để phản bác. Qua cuộc tranh luận đó sự thật của vụ án được các bên làm sáng tỏ. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3, Điều 45, về nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên, thì ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án hành chính sẽ không có ai tranh luận lại, vì dự thảo không quy định việc tranh luận lại với ý kiến của bên Viện kiểm sát. Như vậy, vô hình trung vi phạm nguyên tắc tranh tụng. Thực tiễn nhiều vụ án cho thấy nội dung phát biểu của đại diện Viện kiểm sát rất chủ quan, một chiều, thậm chí bỏ qua nhiều chi tiết chứng cứ trong hồ sơ để đưa ra một đề nghị mà đề nghị này sau đó bị Hội đồng xử án bác bỏ. Xét về quyền hạn của Viện kiểm sát trong vụ kiện hành chính cũng như dân sự, việc giới hạn nội dung phát biểu của Viện kiểm sát chỉ trong hoạt động kiểm sát sự tuân thủ pháp luật của Hội đồng xử án, Thẩm phán chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện tố tụng là đủ. Không nên quy định nội dung phát biểu ý kiến bao gồm cả đề nghị cách giải quyết cụ thể vụ án.