Không quan tâm các thế hệ khán giả thì đến lúc nghệ thuật truyền thống chỉ là "cổ vật"
Dự án Sân khấu học đường vừa kết thúc chặng đường 10 năm thực hiện. 10 năm chỉ là quá nhỏ để xây dựng tình yêu nghệ thuật của các em học sinh đối với loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Nhưng 10 năm lại là bước khởi đầu hướng đi mới, tạo dựng sức sống lâu dài cho nghệ thuật truyền thống…
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa tổng kết Dự án Sân khấu học đường. Những thành công mà dự án mang lại là điều không thể phủ nhận. Theo con số thống kê của Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đã có hơn 1.000 em học sinh của 55 trường THCS và THPT thuộc 18 tỉnh, thành phố trong cả nước được tiếp cận tinh hoa nghệ thuật truyền thống của dân tộc bằng hình thức này.
Giáo sư Vũ Hoàng Chương nhận xét, càng đến với các trường cấp II, III, đến với thế hệ học trò mới thấy ở đó có rất nhiều tiềm năng nghệ thuật và có lòng yêu nghệ thuật dân tộc thiết tha. Từ tình yêu đó, các em đi vào thế giới nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, cải lương, dân ca kịch một cách thuận lợi, mặc dù phải học hát, học múa nhọc nhằn, rất công phu. Cùng với các diễn viên chuyên nghiệp giàu kinh nghiệm và nhiệt tâm, các em học sinh ở các trường THPT Hà Tây, Thái Bình, Hà Nam, Hà Nội… đã diễn chèo rất hay ngoài mức tưởng tượng đối với lớp học sinh nhỏ tuổi. Nếu như ở Huế, việc thực hiện dự án tuồng chưa thực sự nổi bật lắm thì đến địa phận Đà Nẵng, chất lượng diễn viên nhí hoàn toàn khác. Lần sâu vào Nam Trung bộ, các Đoàn ca kịch Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa cũng đưa nghệ thuật bài chòi vào trường học một cách ngọt ngào và mang lại hiệu ứng cao. Cũng trong giai đoạn 2007- 2010, dự án sân khấu học đường đã đến tận Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh và thậm chí còn đến tận miền đất tận cùng của Tổ quốc là vùng Đồng Tháp Mười. Cụ thể là nhà hát cải lương Trần Hữu Trang đã tổ chức rất bài bản trong việc đưa nghệ thuật cải lương vào nhà trường tại một thành phố lớn mà đang có hàng chục loại hình nghệ thuật hiện đại đang tranh chấp lãnh địa…
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự chuyển biến về kinh tế kéo theo sự biến đổi về văn hóa, lối sống và nhu cầu giải trí, thưởng thức của đại đa số thế hệ trẻ. Trong đó, sự phát triển với tốc độ chóng mặt của công nghệ thông tin cũng là hệ lụy khiến một số lớp trẻ thanh thiếu niên thờ ơ với giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Vì vậy, việc giáo dục nghệ thuật truyền thống cho thế hệ trẻ qua Dự án Sân khấu học đường là việc làm có ý nghĩa và cần thiết, góp phần vào công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc theo tinh thần Nghị quyết trung ương 5, Khóa VIII. Có thể, có rất nhiều băn khoăn của các nghệ sỹ, nhà quản lý văn hóa về tính hiệu quả và sức sống lâu bền mà dự án mang lại. Những trăn trở đó đi từ những khó khăn, hạn chế mà qua 10 năm thực hiện dự án đã vấp phải như: thiếu kinh phí trang trải, thời gian thực hiện dự án quá ngắn dẫn đến tình trạng vội vã và đốt cháy giai đoạn trong khâu đào tạo, ban giám hiệu một số trường còn thờ ơ với dự án sân khấu học đường, một số vai diễn đưa ra quá khó, chưa phù hợp với lứa tuổi, trình độ của các em học sinh… Mong muốn của những người thực hiện Dự án là đưa sân khấu sống trong cuộc đời. Nhưng việc "nuôi sống" sân khấu học đường thì dường như chỉ một vài Dự án là chưa đủ. Còn đó, bài toán về sức sống của sân khấu học đường sẽ như thế nào sau Dự án này ? Và điều quan trọng hơn nữa là nó đọng lại trong các em học sinh được bao lâu ?
Để tình yêu nghệ thuật truyền thống tìm về với thế hệ trẻ quả là một việc làm không mấy dễ. Nói như Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Đăng Chương, thông qua Dự án này, những người làm giáo dục, làm văn hóa phải nhìn nhận rằng nếu không quan tâm tới các thế hệ khán giả thì đến một lúc nào đó nghệ thuật truyền thống của chúng ta chỉ là "cổ vật" trong bảo tàng, hay nói một cách khác chỉ là những sản phẩm văn hóa phi vật thể được lưu giữ trong các đơn vị nghệ thuật mà thôi. Tức là nó không được sống trong đời sống của nhân dân, không đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Giá trị đích thực của nghệ thuật đó là tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi của đời sống xã hội, mang đến những chức năng giáo dục, thẩm mỹ và nhận thức, đặc biệt là chức năng dự báo đối với đời sống xã hội của con người.
Có thể nói, các môn nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương cùng với các làn điệu âm nhạc dân gian Việt Nam có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân ca, vọng cổ, nhạc cung đình... của người Việt và bên cạnh đó là âm nhạc dân gian của các dân tộc khác như hát lượn của người Tày, hát Sli của người Nùng, hát Khan của người Ê Đê, hát dù kê của người Khmer... đã tạo nên sự đa sắc thái của nền nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Để thế hệ trẻ hôm nay, hiểu, yêu nghệ thuật truyền thống của dân tộc cần đưa nghệ thuật truyền thống đến với các em càng sớm càng tốt ở mức có thể được. Được tiếp cận với nghệ thuật truyền thống, không phải sẽ hình thành ngay tình yêu nghệ thuật trong các em cần cả một quá trình và sự trải nghiệm cuộc sống để cảm thụ.
10 năm qua mới chỉ là bước thử nghiệm khởi đầu cho một chiến lược bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống cho tương lai từ thế hệ trẻ. Từ thử nghiệm bước đầu này, mong muốn, các nhà quản lý văn hóa, các cấp, các ngành, các nghệ sỹ, nghệ nhân cùng chung tay nối tiếp dự án đã thực hiện. Trong đó, các môn nghệ thuật truyền thống có thể đưa vào chương trình ngoại khóa của các trường, hình thành các câu lạc bộ tổ chức biểu diễn giao lưu, giới thiệu về nghệ thuật truyền thống đến với đông đảo học sinh. Bên cạnh đó, cần tạo ra những tác phẩm nghệ thuật dựa trên nền tảng, trên những giá trị mà cha ông ta đã đúc kết nhưng vẫn mang hơi thở của thời đại, phù hợp với lứa tuổi các em học sinh.
Phó cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Đăng Chương ví, Dự án Sân khấu học đường giống như một dòng nước mát nhỏ nhoi dẫn đến cánh đồng khô hạn. Mạch nguồn có thể nhỏ, nhưng bền bỉ nếu được nuôi dưỡng. Tình yêu nghệ thuật cũng vậy, đôi khi bắt nguồn từ những điều nhỏ nhất. Tình yêu đó phải được chăm sóc, nuôi dưỡng và cần cả quá trình để thẩm thấu.