Không làm tăng gánh nặng nợ công
Nhà nước có trách nhiệm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh tế của toàn xã hội và đầu tư phát triển, nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Giai đoạn 2006 - 2010, vốn của Nhà nước, (bao gồm cả vốn NSNN, vốn trái phiếu chính phủ, vốn tín dụng nhà nước và vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước) chỉ chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giảm so với mức 52% trong giai đoạn 2001 - 2005, trong khi đó, vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước (gồm vốn đầu tư của khu vực tư nhân và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) chiếm 60%, tăng so với mức 48% trong giai đoạn 2001 - 2005.

Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra rằng: tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển nguồn nhân lực được coi là những khâu đột phá của giai đoạn 2011 - 2020. Vấn đề là làm sao vẫn tăng trưởng đầu tư công cao cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà không làm tăng gánh nặng nợ công đồng thời bảo đảm an ninh tài chính quốc gia?
Các quốc gia có cách tiếp cận vấn đề này khác nhau tuỳ tình hình thực tế. Nếu tỷ lệ nợ công trên tổng thu nhập quốc dân thấp, an toàn thì có thể vay nợ thêm để đầu tư. Còn các quốc gia đã có tỷ lệ nợ công cao, hay các cân đối vĩ mô thiếu ổn định, khi tăng đầu tư công phải tăng tương ứng tích lũy quốc gia bằng cách tăng thu ngân sách nhà nước hay xem xét lại thứ tự ưu tiên trong chi ngân sách.
Đối với nước ta, việc tăng tích lũy của Nhà nước cho đầu tư công trong dài hạn có thể thực hiện thông qua việc điều chỉnh một số thuế suất; song song với việc thu đúng, thu đủ và chống thất thu, trốn thuế, quản lý tốt; đồng thời hợp lý hóa và tăng cường hiệu quả chi của ngân sách nhà nước. Khi đầu tư công tăng cao hơn khả năng tích lũy của Nhà nước, cần chú ý tới khả năng trả nợ của nền kinh tế trong trung hạn. Khi tăng đầu tư công phải tập trung cho các dự án đặc biệt cấp bách, then chốt và có tác động lan tỏa trong các lĩnh vực của nền kinh tế, nhất là phải giải quyết các nút thắt cổ chai. Khi tăng đầu tư công và thay đổi thứ tự ưu tiên trong chi ngân sách cần tính đến sự hài hòa giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
Gần đây, chúng ta đã chuyển hướng huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Nhiều dự án do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư đã mang lại hiệu quả thiết thực như cầu và đường Điện Biên Phủ ở TP Hồ Chí Minh, đường cao tốc TP Hồ Chí Minh đi Trung Lương, cầu Phú Mỹ,… Hướng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công theo hình thức đối tác công - tư (Public Private Partnership-PPP) đang được thực hiện thí điểm rộng rãi.
|
Kinh nghiệm vừa qua cho thấy, kết cấu hạ tầng kinh tế, giao thông-dễ được các nhà đầu tư tư nhân để mắt đến hơn là hạ tầng xã hội. Vì các dự án hạ tầng kỹ thuật nhằm giải quyết các “nút thắt cổ chai” của nền kinh tế thường đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn nên cũng hấp dẫn khu vực tư nhân hơn, việc thu phí cũng dễ hơn và có nhiều dịch vụ sau dự án đi kèm (ví dụ như duy tu, sửa chữa đường thu phí...)
Về nguyên tắc, đầu tư theo hình thức đối tác công - tư cho phép chính phủ giảm tương đối đầu tư công cho phát triển hạ tầng hay kéo dài thời gian thanh toán công trình nhưng vẫn được hưởng lợi từ dự án, nhất là trong giai đoạn ngân sách nhà nước cân đối còn khó khăn mà nhu cầu đầu tư lại rất cao như hiện nay.
Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư cũng tạo ra cơ hội tăng đầu tư cho cơ sở hạ tầng trong điều kiện được cơ cấu đúng. Cũng nên nhìn nhận rằng hình thức đối tác công - tư không phải là tất cả. Quan trọng là chúng ta sử dụng hình thức đối tác công - tư để tăng cường hiệu quả đầu tư, tăng cường khả năng hoàn vốn, chứ không phải là nhằm theo đuổi mục tiêu giảm gánh nặng ngân sách nhà nước và giảm nợ công.
Việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực còn hạn hẹp của ngân sách nhà
nước trong giai đoạn hiện nay giữa đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và đầu tư cho con người là vấn đề quan trọng, nhất là trước yêu cầu cơ cấu lại ngân sách nhà nước, và tăng trưởng kinh tế của nước ta phụ thuộc rất nhiều vào tổng lượng vốn đầu tư hàng năm theo mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Do đó, đổi mới các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy xã hội hóa, huy động các nguồn vốn xã hội thông qua đầu tư theo hình thức đối tác công - tư là một trong những hướng đi tích cực theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong giai đoạn 2006 - 2010, mặc dù chịu nhiều tác động của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, để kích thích tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, Việt Nam vẫn duy trì tổng mức đầu tư toàn xã hội đạt gấp khoảng 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, tỷ trọng so với tổng thu nhập quốc dân (GDP) đạt 42,5%. Nếu tính cả chi đầu tư từ nguồn trái phiếu chính phủ và nguồn xổ số kiến thiết thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển trong tổng chi ngân sách nhà nước vẫn ở mức cao, bình quân đạt 32,6%. Tốc độ tăng đầu tư công cao thể hiện qua bội chi ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở trên 5,6% GDP và huy động gần 168 ngàn tỷ đồng trái phiếu chính phủ để đầu tư cho các công trình hạ tầng về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục cấp bách nhất, dẫn đến tỷ lệ nợ công so với GDP bằng 52,6% vào cuối năm 2010. |
Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư là việc nhà nước và Nhà đầu tư tư nhân cùng phối hợp thực hiện dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án theo đó nhà nước nhượng quyền cho nhà đầu tư được phép đầu tư, khai thác công trình, cung cấp dịch vụ công trong một thời gian nhất định, đồng thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của hai bên. |
Phần vốn nhà nước đầu tư vào dự án theo hình thức đối tác công - tư phải đảm bảo một tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật, có thể lấy từ ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, trái phiếu Chính phủ, vốn tính dụng do Nhà nước bảo lãnh, tín dụng đầu tư phát triển, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Vốn của khu vực tư nhân tham gia dự án gồm vốn chủ sở hữu, các nguồn vốn vay trong và ngoài nước của Nhà đầu tư. Các lĩnh vực cầu, đường sắt - bộ, giao thông đô thị, cảng sông, cảng biển, cảng hàng không, cung cấp nước sạch, cung cấp điện, bệnh viện, nhà máy xử lý chất thải… được ưu tiên thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư. |