Khó hòa giải các tranh chấp môi trường
Theo nhiều chuyên gia, Việt Nam hiện nay đang dùng cơ chế hành chính để giải quyết tranh chấp môi trường nhưng còn thiếu năng lực trong xác định thiệt hại ô nhiễm, do vậy phương thức tốt nhất trên thực tế là hòa giải.
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Pháp luật và chính sách phát triển bền vững Trần Thị Hương Trang cho rằng: “Phương thức hòa giải tiết kiệm thời gian, án phí, đưa lại kết quả dễ dàng và thuận tiện hơn rất nhiều so với các thủ tục của các vụ kiện, góp phần duy trì các mối quan hệ tốt đẹp giữa các bên tranh chấp”. Mặt khác, người trung gian hòa giải có thể huy động sự ủng hộ, đồng tình của các bên liên quan để góp phần cân bằng vị thế quyền lực đối với cộng đồng dân cư yếu thế bị gây thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, giải quyết những thiệt hại cải vật chất thông qua con đường hòa giải thường dễ dàng hơn. Khi các bên đã chấp nhận thương lượng là đã cơ bản giải quyết được tranh chấp.
Mặc dù có nhiều đặc điểm tích cực nhưng vấn đề đặt ra ở Việt Nam là ít tổ chức, cá nhân có đủ năng lực, có khả năng đứng ra đóng vai trò trung gian, hòa giải. Không giống như các nước khác như Australia hay Philippine có các trung tâm hoặc tổ chức luật sư chuyên về môi trường được thành lập chuyên nghiệp để giải quyết các tranh chấp thông qua con đường trung gian. Quy định vai trò của các tổ chức trung gian hòa giải môi trường ở cơ sở chưa được đề cập trong Luật Bảo vệ môi trường 2005 cũng là vướng mắc trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, sự thiếu hụt đội ngũ luật sư chuyên về môi trường và chưa cụ thể trong cách thức giải quyết cũng là thực tế khiến việc hòa giải tranh chấp môi trường gặp nhiều khó khăn. Trong trường hợåp người bị gây thiệt hại là cộng đồng dân cư địa phương, yếu thế về mọi mặt thì việc có hòa giải hay không còn phụ thuộc vào thiện chí của tất cả các bên liên quan.
Thêm nữa, sự tham gia của các cơ quan nhà nước trong mọi trường hợp ngay cả việc giải quyết tranh chấp môi trường cũng là đặc thù ở nước ta. Đơn cử như với vụ tranh chấp giữa cộng đồng dân cư của một xã thì UBND cấp xã đóng vai trò không thể thiếu như một bên tham gia quá trình thương lượng, có thể làm chứng và xác nhận kết quả hòa giải. Tuy nhiên, pháp luật còn thiếu quy định bảo đảm việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan này.
Theo Điều 122 Luật Bảo vệ môi trường 2005, đối với những vụ tranh chấp môi trường, UBND xã chỉ có thẩm quyền hòa giải tranh chấp song thành phần, thủ tục hòa giải và giá trị pháp lý của việc hòa giải chưa được đề cập tới. Do vậy, chưa có đủ cơ sở để xác định chủ thể có thẩm quyền tiến hành hòa giải cũng như giá trị của văn bản ghi nhận kết quả hòa giải về việc bồi thường giữa các bên do chính quyền xã lập. “Việc hòa giải tiền tố tụng đối với các tranh chấp về môi trường có phải là một điều kiện bắt buộc trước khi khởi kiện ra tòa hay không vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ” - một chuyên gia nói.
Quan trọng hơn hết là việc áp dụng phương thức hòa giải cũng cần cân nhắc khi giải quyết một số tranh chấp môi trường. Thực tế cho thấy đối với những tranh chấp phát sinh từ hành vi gây thiệt hại do vi phạm quy định về an toàn sinh học rất khó duy trì sự thỏa hiệp. Hơn nữa, những thiệt hại này thường không hiện hữu ngay mà tiềm ẩn, hoặc khi hiện hữu lại rất khó xác định chủ thể gây thiệt hại hay khu vực bị thiệt hại.