Khích lệ sự dấn thân chủ động của học sinh

Ngọc Phương thực hiện 29/05/2023 07:03

Bắt đầu bằng việc chính mỗi học sinh đặt câu hỏi mà không lo ngại sự nhận xét, đánh giá hay chỉ trích, chúng ta sẽ tiến lại gần hơn tới mục tiêu rèn luyện để phát triển tư duy cá nhân. Nhà giáo HOÀNG ANH ĐỨC chia sẻ về kỹ thuật khởi tạo câu hỏi mà anh lan tỏa những năm qua.

Tự đặt câu hỏi sẽ có động lực tìm câu trả lời

- Kỹ thuật khởi tạo câu hỏi (Question Formulation Technique - QFT) khá mới mẻ tại Việt Nam, điều gì khiến anh ấn tượng với và mong muốn chia sẻ kỹ thuật này cũng như dịch cuốn sách “Chỉ thay đổi một điều” mới ra mắt?

Nhà giáo Hoàng Anh Đức chia sẻ về kỹ thuật khởi tạo câu hỏi - Ảnh: Ng. Phương
Nhà giáo Hoàng Anh Đức chia sẻ về kỹ thuật khởi tạo câu hỏi. Ảnh: Ng. Phương

- Lần đầu tiếp xúc với QFT năm 2018, ngay lập tức tôi đặt quyết tâm phải phổ biến nó tới nhiều người nhất có thể, không chỉ các đồng nghiệp, mà còn cả phụ huynh, bởi một lẽ rất đơn giản: trong suốt những năm tháng đi học, hầu như chúng ta không được dạy cách đặt câu hỏi. Khi giáo viên đưa ra những câu hỏi chủ đạo để dẫn dắt bài học, hoặc câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh trong các thao tác học tập, rất khó để thực sự lôi cuốn các em vào tiến trình học tập. Nhưng khi tự mình đưa ra các câu hỏi, học sinh sẽ có động lực đi tìm lời giải cho các khúc mắc của chính mình; các em sẽ tự tìm ra những hướng tiếp cận tiềm năng khác nhau - bất kể khả thi hay không khả thi - và tự mình khám phá chúng. Khi ấy, các em thực sự làm chủ quá trình học tập của bản thân, bất kể đó là quá trình học tập kiến thức mới, giải quyết các vấn đề phức hợp, hay mở rộng trải nghiệm về cảm xúc, xã hội. Những người làm giáo dục còn mong chờ gì hơn sự dấn thân chủ động như vậy của học trò?

- Sự khác biệt giữa QFT với cách dạy truyền thống là gì?

- Thực ra rất khó để định nghĩa thế nào là “truyền thống”. Trong các học viện cổ đại Hy-La, rất khó tìm ra các ví dụ về việc thầy đọc trò chép hay thầy hỏi trò trả lời. Ba bộ môn cơ bản của Giáo dục khai phóng bao gồm Ngữ pháp, Logic và Hùng biện. Đó chính là quá trình chúng ta thu nạp kiến thức, xử lý các vấn đề, và thể hiện quan điểm cá nhân. Thông qua đó, con người rèn luyện tư duy và khám phá các hiểu biết mới về thế giới tự nhiên và thế giới của những tạo tác. Tới thời Trung cổ, bốn môn được bổ sung gồm: Số học, Hình học, Âm nhạc và Thiên văn học. Một mặt, bốn bộ môn này vừa là những miền khám phá mới đã dần được hệ thống hóa một cách bài bản. Mặt khác, chúng vẫn là phương tiện để chúng ta học tập và rèn luyện tư duy.

Theo thời gian, nhân loại tiếp tục cho ra đời thêm nhiều môn học khác, nhưng cỗ xe giáo dục tự lúc nào đã đi chệch hướng - chúng ta tập trung vào việc kiểm tra kiến thức được hệ thống hóa nhiều hơn là mục đích rèn luyện để phát triển năng lực tư duy của con người, qua đó có thể khám phá thế giới một cách hiệu quả và đa chiều hơn.

QFT không có gì hoa mỹ hay phức tạp, nó giúp chúng ta tiến gần hơn tới mục tiêu rèn luyện tư duy cho mỗi cá nhân, bắt đầu bằng việc chính mỗi học trò cần đặt câu hỏi và được phép đặt câu hỏi mà không lo ngại bất kỳ sự nhận xét, đánh giá hay chỉ trích nào từ thầy cô hay bạn bè. Các em có thể hỏi mà không lo rằng câu hỏi của mình đúng hay sai, thông minh hay không thông minh...

Sự thay đổi trong tâm thế giáo viên

- Trong quá trình chia sẻ với giáo viên trên khắp cả nước và dõi theo việc ứng dụng kỹ thuật này tại Việt Nam, anh thấy đã có những tác động, chuyển biến ra sao?

- Kể từ năm 2019 tới nay, kỹ thuật này đã được chia sẻ cho ít nhất hơn 1.000 lượt giáo viên trên khắp cả nước. Và tôi tin chắc, rất nhiều thầy cô trong số đó đã chia sẻ lại kinh nghiệm cho đồng nghiệp của mình thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu bài học.

"Năng lực đặt câu hỏi chính là năng lực tuy duy độc lập, thấu đáo mà mỗi người cần có. Tôi có hai mong muốn chính khi phổ cập QFT tại Việt Nam. Thứ nhất, giúp người học (bất kể độ tuổi, chuyên môn, mục đích học tập) nhận ra tầm quan trọng của kỹ năng đặt câu hỏi, từ đó nâng cao hiệu quả học tập của bản thân. Thứ hai, giúp các thầy cô giáo có thể áp dụng một bộ kỹ thuật cô đọng và hiệu quả, chặt chẽ nhưng cũng không kém phần linh hoạt để thực sự chuyển hóa hoạt động dạy và học, thực sự đưa học sinh trở thành trung tâm của quá trình học tập.

Nhà giáo Hoàng Anh Đức

Đối với giáo viên, một điều mà hầu hết thầy cô nhận thấy là câu hỏi của học sinh thường vượt khỏi phạm vi bài học và thậm chí cả môn học của mình. Từ đó, thầy cô có thể giúp học sinh tạo kết nối với các chủ đề học tập khác, cũng như có thêm động lực để cộng tác với giáo viên các bộ môn khác nhằm đưa ra các dự án học tập liên môn hiệu quả. Thứ đến, các giáo viên đều chia sẻ rằng bản thân họ đã có cơ hội được học bài học mà mình vẫn dạy thêm một lần nữa, bởi học sinh đã đưa ra những câu hỏi, quan sát mà thầy cô ít khi nghĩ tới.

Đối với học sinh, các em trở nên hào hứng hơn trong quá trình hỏi, đồng thời cũng biết cách lắng nghe câu hỏi từ các bạn khác. Tại các trường công lập, tư thục và quốc tế, tôi nhận thấy nhiều học sinh áp dụng kỹ thuật này đã hình thành thói quen ghi chép lại chính quá trình đưa ra câu hỏi, trả lời câu hỏi, so sánh và ghi chú sự khác biệt trong câu hỏi và câu trả lời của các bạn khác, nhóm khác. Thú vị hơn nữa, nhiều em còn áp dụng cả thói quen ghi chép này vào những hoạt động khác như đọc sách hay tham quan dã ngoại.

- “Chỉ thay đổi một điều” nghe chừng đơn giản nhưng cũng không dễ dàng?

- Rào cản lớn nhất có lẽ là sự thay đổi trong tâm thế của giáo viên, bởi điều cốt yếu là giáo viên phải lùi mình lại để lắng nghe, quan sát và không can thiệp vào quá trình học sinh đặt câu hỏi. Ví dụ đơn giản nhất, chúng ta không được phép đưa ra những nhận xét như: Câu hỏi của em tốt lắm/ Câu hỏi của em hay quá/ Câu hỏi của em hơi rộng một chút… Thay vào đó, chúng ta cần thực hành sự ghi nhận qua một thao tác đơn giản “Cảm ơn câu hỏi của em/nhóm”, và chuyển sang câu hỏi tiếp theo, hoặc bước tiếp theo trong tiến trình.

Sẽ thật tuyệt nếu có sự kết hợp của hai hay nhiều môn học khác nhau, nhưng giáo viên sẽ phải xác định rõ một số điểm: (i) sự giao thoa và khác biệt của các mục tiêu học tập; (ii) kỳ vọng về sản phẩm/dự án/thí nghiệm mà học sinh cần thực hiện; và (iii) quỹ thời gian và thời gian biểu mà các em sẽ có cho tất cả hoạt động.

Khi giáo viên đã thực sự nhìn thấy hiệu quả tức thì cũng như dài hạn mà kỹ thuật này đem lại, tôi tin chắc chẳng phải có ai thúc giục họ triển khai. Thậm chí, có những thầy, cô giáo hiệu trưởng, hiệu phó mới được chia sẻ đã về tập huấn lại ngay cho đồng nghiệp của mình, trong khi bản thân họ chưa thực sự áp dụng kỹ thuật này. Sự hối hả này thực ra đem lại tác dụng ngược. Nếu thầy cô muốn áp dụng một cách hệ thống, đừng ngần ngại thử áp dụng trên chính chúng ta, thử đi thử lại, rồi mới áp dụng cho học trò.

- Xin cảm ơn anh!

    Nổi bật
        Mới nhất
        Khích lệ sự dấn thân chủ động của học sinh
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO