Iran có “dám” đóng cửa eo biển Hormuz hay không?
Cơ quan lập pháp Iran được cho là đã bật đèn xanh cho việc đóng cửa eo biển Hormuz, nơi được coi là động mạch của giao thông năng lượng toàn cầu. Tuy nhiên, chưa rõ cơ quan an ninh tối cao của Iran có đưa ra lựa chọn này hay không, bởi trong quá khứ, họ chưa bao giờ sử dụng đến vũ khí sắc bén nhưng nguy hiểm này.
Đài truyền hình Press TV của Iran đưa tin, Hội đồng An ninh quốc gia tối cao Iran đang cân nhắc quyết định cuối cùng về việc có nên đóng eo biển Hormuz sau các cuộc không kích của Mỹ hay không, sau khi cơ quan lập pháp tối cao được cho là đã ủng hộ biện pháp này.

Một thành viên của Ủy ban An ninh quốc gia của Quốc hội, Esmail Kosari, được các phương tiện truyền thông Iran trích dẫn hôm 23/6 cho biết: “Hiện tại, Quốc hội đã đi đến nhất trí rằng Iran nên đóng eo biển Hormuz, nhưng quyết định cuối cùng về vấn đề này là trách nhiệm của Hội đồng An ninh quốc gia tối cao”.
Ông Kosari, cũng là chỉ huy của Lực lượng Vệ binh cách mạng Hồi giáo (IRGC) trước đó, vào ngày 22/6 đã phát biểu với Câu lạc bộ Nhà báo trẻ Iran rằng, việc đóng eo biển nằm trong chương trình nghị sự và "sẽ được thực hiện bất cứ khi nào cần thiết".
Trong khi đó, khi được hỏi liệu Tehran có đóng cửa tuyến đường thủy này hay không, Bộ trưởng Ngoại giao Abbas Araghchi hôm 22/6 đã né tránh câu hỏi và trả lời: "Iran có nhiều lựa chọn khác nhau".
Iran từ lâu đã sử dụng mối đe dọa đóng cửa eo biển Hormuz, nơi có khoảng 20% nhu cầu dầu khí toàn cầu đi qua, như một cách để chống lại áp lực từ phương Tây hiện đang lên đến đỉnh điểm sau cuộc tấn công của Mỹ vào các cơ sở hạt nhân của nước này.
"Động mạch chủ" của thương mại toàn cầu
Eo biển Hormuz nằm giữa Oman và Iran, nối liền Vịnh Ảrập ở phía Bắc với Vịnh Oman ở phía Nam và Biển Ảrập. Với chiều dài khoảng 161km và điểm hẹp nhất chỉ rộng 33km, nơi các luồng hàng hải mỗi chiều chỉ rộng vỏn vẹn 3,2km, tuyến đường này là lối đi duy nhất để dầu mỏ từ các cường quốc vùng Vịnh trong đó có cả Iran vận chuyển ra thị trường quốc tế.

Ước tính, khoảng 1/3 lượng dầu toàn cầu và một phần đáng kể khí đốt tự nhiên đi qua eo biển này mỗi ngày, trong đó, khoảng 80% khối lượng dầu khí được chuyển đến thị trường châu Á, với những quốc gia nhập khẩu chính bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản, 20% còn lại được vận chuyển tới châu Âu. Đối với thế giới, khu vực này không chỉ là nguồn cung cấp năng lượng mà còn là động mạch chủ của thương mại toàn cầu. Bất kỳ sự gián đoạn nào đối với dòng chảy này đều sẽ gây ra những cú sốc trên thị trường năng lượng toàn cầu, có khả năng gây tăng giá dầu đột biến và làm mất ổn định hơn nữa một khu vực vốn đã bất ổn.
Ý nghĩa chiến lược của Hormuz không chỉ nằm ở khối lượng dầu vận chuyển qua đây mỗi ngày mà còn ở việc không có tuyến đường nào có thể thay thế. Các đường ống dẫn dầu trên bộ, như đường ống Đông - Tây của Ảrập Xêút hay hệ thống Habshan - Fujairah của UAE, chỉ có thể vận chuyển tối đa 6,5 triệu thùng/ngày, chưa bằng 1/2 lượng dầu đi qua Hormuz. Nếu eo biển bị phong tỏa, các tàu chở dầu buộc phải đi vòng qua Mũi Hảo Vọng của Nam Phi. Điều này sẽ khiến thời gian vận chuyển kéo dài thêm hàng tuần và đẩy chi phí vận tải lên cao ngất ngưởng.
Hậu quả kinh tế và quân sự
Chính vì những lý do trên, việc đóng cửa eo biển Hormuz, thậm chí là tạm thời, có thể khiến giá dầu tăng vọt chỉ sau một đêm. Theo một số dự báo, giá dầu có khả năng tăng 80% ngay trong tuần đầu vì các tuyến đường thay thế sẽ phải chịu chi phí rất lớn.
Theo hãng vận tải biển Maersk của Đan Mạch, ngày 22/6, các tàu của hãng vẫn tiếp tục di chuyển qua eo biển Hormuz, song khẳng định sẵn sàng đánh giá lại hoạt động tại khu vực này, sau các cuộc không kích của Mỹ nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Iran. Thông báo của công ty này nêu rõ: “Chúng tôi sẽ liên tục theo dõi mức độ rủi ro an ninh đối với từng tàu trong khu vực và sẵn sàng triển khai các biện pháp vận hành cần thiết”.
Trong kịch bản xấu nhất, nếu eo biển bị đóng hoàn toàn, các chuyên gia dự đoán giá dầu có thể vọt lên 120-150 USD/thùng, thậm chí chạm 300 USD/thùng nếu xung đột kéo dài. Hậu quả sẽ là một “cú sốc” kinh tế toàn cầu với lạm phát tăng vọt, chuỗi cung ứng đứt gãy và suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia phụ thuộc vào dầu mỏ như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và EU...
Về mặt quân sự, hành động này sẽ kích hoạt phản ứng quân sự toàn diện từ Mỹ, có thể dẫn đến chiến tranh khu vực lan rộng, với sự tham gia của Israel, Ảrập Xêút, và các đồng minh khác.
Tại sao Iran chưa bao giờ sử dụng “vũ khí” này?
Với bờ biển phía bắc eo biển nằm hoàn toàn trong lãnh hải Iran, cùng các đảo chiến lược Hormuz, Qeshm và Abu Musa, Tehran có lợi thế địa lý độc nhất để kiểm soát tuyến đường này. Và do vậy, Iran từ lâu đã sử dụng nó như lá bài mặc cả chiến lược. Nhưng bất chấp nhiều lần đe dọa trong quá khứ, Iran chưa bao giờ thực sự đóng cửa eo biển này, vì những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, việc đóng cửa Hormuz có thể là con dao hai lưỡi, tác động ngược đến kinh tế Iran. Quốc gia này phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu dầu mỏ, chiếm hơn 50% ngân sách nhà nước. Nếu phong tỏa Hormuz, không chỉ các tàu chở dầu của Ảrập Xêút, UAE hay Iraq bị chặn mà chính tàu của Iran cũng không thể rời cảng. Điều này sẽ cắt đứt nguồn thu ngoại tệ quan trọng, đẩy nền kinh tế Iran, vốn đã suy yếu bởi cấm vận, rơi vào tình trạng bất ổn nghiêm trọng.
Bloomberg dẫn lời một chuyên gia: “Đóng cửa Hormuz sẽ gây hại cho Iran nhiều hơn bất kỳ đối thủ nào. Một chiến thắng trong thảm bại như vậy sẽ khiến Tehran trả giá bằng sự suy thoái kinh tế của chính mình”. Chuyên gia này cũng chỉ ra rằng, trong bối cảnh các lệnh trừng phạt phương Tây làm giảm nguồn cung ngoại tệ của Iran, việc tự cắt đứt nguồn thu từ dầu mỏ là điều Tehran không thể mạo hiểm.
Hơn nữa, phần lớn hàng hóa tiêu dùng của Iran, từ thực phẩm đến thiết bị y tế, cũng được nhập khẩu qua Hormuz. Phong tỏa eo biển đồng nghĩa với tự cô lập kinh tế, gây ra khủng hoảng nội bộ. Theo ông Anas Alhajji, “Iran sẽ không dại gì tự gây tổn thương trước khi làm đau kẻ thù”.
Thứ hai, việc động đến lợi ích kinh tế của rất nhiều bên sẽ dẫn phản ứng quyết liệt, biến Iran trở thành kẻ thù của nhiều bên, từ đối thủ tới đồng minh. Đầu tiên là Mỹ, hành động phong tỏa Hormuz sẽ bị coi là “lằn ranh đỏ” đối với Mỹ và các đồng minh, dẫn đến phản ứng quân sự mạnh mẽ. Mỹ duy trì Hạm đội 5 tại Bahrain, chỉ cách Iran vài chục hải lý, với tàu sân bay, tàu khu trục, tàu quét mìn sẵn sàng đảm bảo “tự do hàng hải”. Một cuộc trả đũa do Mỹ dẫn đầu có thể nhắm vào toàn bộ bờ biển và cảng biển của Iran, gây thiệt hại nặng nề cho cơ sở hạ tầng dầu mỏ và quân sự của Tehran. Hơn nữa, các cường quốc khác như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước vốn nhập khẩu lần lượt 90% và 70% dầu mỏ từ Trung Đông.
Trong khi đó, Trung Quốc - đồng minh và đối tác kinh tế hàng đầu của Iran cũng là nhân tố buộc Tehran phải kiềm chế. Năm 2024, gần 50% lượng dầu đi qua Hormuz có điểm đến là Trung Quốc. Nếu Iran phong tỏa eo biển, Bắc Kinh sẽ chịu thiệt hại nặng nề do gián đoạn nguồn cung năng lượng và tăng giá dầu. Chuyên gia Ellen Wald nhận định: “Trung Quốc sẽ dùng toàn bộ sức mạnh kinh tế và ngoại giao để gây áp lực lên Iran, vì họ không muốn bất kỳ sự gián đoạn nào ở Hormuz”.
Trong trường hợp không thể ngăn cản, Trung Quốc có thể chuyển sang bổ sung thêm lượng dầu từ các nguồn cung khác như Nga hoặc Ảrập Xêút, khiến Iran mất đi một thị trường quan trọng hàng đầu. Liệu Tehran có muốn mạo hiểm làm mất lòng Bắc Kinh?
Hiểu được vai trò của Bắc Kinh, ngày 22/6, Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio, người cũng là Cố vấn An ninh quốc gia đã kêu gọi Trung Quốc thuyết phục Iran về vấn đề này, "vì họ phụ thuộc rất nhiều vào eo biển Hormuz", ông Rubico cho biết. “Nếu Iran làm vậy, đó sẽ là một sai lầm khủng khiếp khác. Đó là sự tự sát về mặt kinh tế và sẽ gây tổn hại đến nền kinh tế của các quốc gia khác tệ hơn nhiều so với Mỹ".
Thứ ba là thách thức về mặt kỹ thuật - việc phong tỏa Hormuz không phải việc nói là có thể làm được. Theo chuyên gia quân sự TWZ, Iran có thể rải thủy lôi, triển khai UAV hoặc sử dụng tên lửa bờ biển để quấy nhiễu tàu thuyền nhưng duy trì phong tỏa lâu dài đòi hỏi nguồn lực và sự phối hợp vượt xa khả năng hiện tại của Tehran. Hơn nữa, phần lớn eo biển nằm trong lãnh hải Oman và Iran không thể kiểm soát toàn bộ tuyến đường mà không gây xung đột với Chính quyền Muscat.
Liệu lần này Iran có lựa chọn khác?
Tuy nhiên, điều làm cho khoảnh khắc hiện tại khác biệt là bối cảnh: Một cuộc chiến leo thang với Israel và áp lực ngày càng tăng từ Mỹ. Việc đóng cửa tiềm tàng sẽ không chỉ là một phản ứng chiến thuật - mà sẽ là một sự leo thang chiến lược, báo hiệu sự sẵn sàng của Tehran trong việc biến các luồng năng lượng toàn cầu thành vũ khí để ngăn chặn hoặc trả đũa các hành động quân sự tiếp theo.
Mặc dù Quốc hội Iran được cho là đã thông qua biện pháp này, nhưng quyết định cuối cùng vẫn nằm ở Hội đồng An ninh quốc gia tối cao, cơ quan do Lãnh tụ Tối cao Ali Khamenei giám sát.
Vẫn chưa rõ Iran đã tiến gần đến mức nào trong việc thực hiện biện pháp này, hoặc liệu có sử dụng mối đe dọa này như một con bài mặc cả trong bối cảnh căng thẳng gia tăng hay không, nhưng tuyên bố của Kosari rằng việc đóng cửa "sẽ được thực hiện bất cứ khi nào cần thiết" cho thấy Tehran muốn giữ lá bài tẩy này thực sự là vũ khí răn đe - như một chuyên gia Mỹ khẳng định: Nó chỉ có tác dụng khi chưa được sử dụng.
Trong những ngày tới, "số phận" Hormuz sẽ phụ thuộc vào diễn biến của cuộc xung đột giữa Iran và Israel, cách Iran phản ứng với các cuộc tấn công mới nhất của Mỹ vào các cơ sở hạt nhân của mình và liệu các lối thoát ngoại giao có xuất hiện hay không. Nhưng có một điều rõ ràng, nếu eo biển Hormuz bị đóng, thậm chí là tạm thời, thì các hiệu ứng lan tỏa sẽ được "cảm nhận" xa hơn nhiều so với Vịnh Ảrập.