Dòng sông xanh hy vọng và hòa bình
Không chỉ là bản nhạc valse nổi tiếng nhất mọi thời đại và tiêu biểu nhất cho thành Vienna, An der schonen blauen Donau (The Blue Danube hay Dòng sông xanh) của nhà soạn nhạc Áo Johann Strauss còn là biểu tượng của hy vọng và hòa bình.
Hơn 50 năm qua, Dòng sông xanh luôn là đỉnh điểm buổi hòa tấu đón mừng năm mới của Dàn nhạc giao hưởng Vienna. Chương trình được phát đúng ngày 1.1 hàng năm để gửi đến hơn 1 tỷ khán giả tại 72 quốc gia thông điệp về hy vọng, tình bạn và hòa bình. Gặp bất kỳ người Áo nào, ở bất kỳ nơi đâu, chỉ cần nói về bản valse Dòng sông xanh, cũng đủ để họ rưng rưng. Tác phẩm ẩn chứa một thoáng buồn và lãng mạn của các nước Slave, nhưng cũng đậm nét vui tươi, đầy nhựa sống, nhẹ nhàng, lả lướt nhưng không hời hợt, ảnh hưởng từ văn hóa của Italy và Đức.
Từ thất bại đến thành công
Thế kỷ XIX, truyền thống lễ hội hóa trang bị cấm, để tránh xảy ra những vụ ám sát. Nhưng người Áo, đặc biệt là dân thành Vienna lại nổi tiếng thích hội họp, khiêu vũ. Trong bối cảnh đó, Johann Strauss cha đã trở thành nhạc sỹ nổi tiếng nhờ sáng tác những bản valse để dân tình giải trí. Điệu valse vừa đơn giản, vừa cuốn hút nên đã dễ đi vào lòng người, dễ chinh phục mọi tầng lớp từ bậc vua chúa, vương tôn công tử, đến giới bình dân.

Johann Strauss con (1825 - 1899) sinh ra và lớn lên bên dòng Danube. Srauss cha không muốn con mình sống với cây đàn. Nhưng trời không chiều người. Johann Strauss con sớm chứng minh mình là một nhạc sỹ vĩ cầm tài hoa. Năm 19 tuổi, Johann được mời làm giám đốc một nhà hát ở ngoại ô Thủ đô nước Áo. Báo chí Vienna năm 1844 cho rằng, Johann Strauss con có tài hơn cha. Vô hình chung, hai bố con nhà Strauss trở thành kình địch của nhau trong lòng người hâm mộ. Có điều Johann Strauss cha là người có đầu óc kinh doanh và thực dụng. Ông sớm hiểu ra rằng, tiền tài và danh vọng đang chờ đợi họ, nếu hai bố con gạt bất đồng sang một bên để cùng xây dựng tổ hợp sáng tác, lưu diễn khắp nơi. Tiếc là Johann Strauss cha chưa bao giờ được thưởng thức bản valse nổi tiếng nhất của con trai. Dòng sông xanh ra đời hơn 20 năm sau khi ông mất. Năm 1866, Johann Strauss con, khi đó 42 tuổi, hoàn tất bản valse nổi tiếng nhất mọi thời đại này.
Tháng 2.1867, Dòng sông xanh được trình diễn lần đầu tiên tại thành Vienna. Đó là lần đầu tiên Johann Strauss soạn một bản valse có lời, dựa trên bài thơ của một quan chức trong ngành cảnh sát thời bấy giờ. Khi dàn đồng ca cất lên những lời thơ ngớ ngẩn thì đã bị khán giả chê cười. Chẳng còn ai để ý đến phần âm nhạc, đến chất lãng mạn, lôi cuốn, bay bổng của Johann Strauss. 3 tháng sau, sang Pháp trình diễn trong khuôn khổ Hội chợ triển lãm toàn cầu, Strauss đã chinh phục cả Paris. Khi đã giới thiệu tất cả kho tàng sáng tác của mình, khán giả vẫn đòi được thưởng thức nhạc những bản valse của Strauss, Johann sực nhớ tới Dòng sông xanh, nhưng lần này ông quyết định chỉ giới thiệu phần nhạc mà cố tình bỏ hẳn dàn đồng ca. Đêm 28.5.1867, Dòng sông xanh được khán giả Paris đòi bis (biểu diễn thêm) đến 20 lần. Sự kiện chưa từng có trong lịch sử âm nhạc. Kể từ hôm ấy, Dòng sông xanh không còn của riêng người Áo.
Tiếng đại bác đi trước tiếng nhạc
Tiếng tăm của Strauss sau đêm trình diễn ở Paris đã vượt Đại Tây Dương. Thành phố Boston bên bờ đông nước Mỹ đã làm đủ mọi cách để mời nhạc sỹ Áo sang trình diễn. Ngày 17.6.1872, nhân lễ hội âm nhạc, Johann Strauss điều khiển dàn nhạc 20.000 nhạc công với sự hỗ trợ của khoảng 100 nhạc trưởng để phục vụ 100.000 khán giả. Sau này trong một lá thư, cha đẻ của Dòng sông xanh bằng giọng văn khá khôi hài, ông kể lại buổi trình diễn: “tôi lo lắng không biết phải mở đầu và kết thúc buổi hòa tấu thế nào. Hôm ấy mà tôi bỏ cuộc thì chắc chắn sẽ bị đưa lên đoạn đầu đài. Thế rồi một phát đại bác là tín hiệu để dàn nhạc bắt đầu. Tôi cầu nguyện cho tất cả nhạc công kết thúc Dòng sông xanh cùng một lúc. Lạy chúa, mọi sự đều chôi trảy (…) Ngày hôm sau, tôi bị đội quân các ông bầu nhà hát rượt đuổi. Tôi phải chạy trốn. Họ muốn tôi lưu diễn trên toàn nước Mỹ”.
Đâu đó, Johann Strauss là một trong những pop star quốc tế đầu tiên trên thế giới, tương tự như Frank Sinatra, Elvis Presley ở vào thập niên 1950 hay ban nhạc Beatles vào những năm 1960. Với Dòng sông xanh, tổ hợp âm nhạc của gia đình Strauss lại càng phát triển. Giải thích về sự nhiệm màu của bản nhạc này, chính tác giả viết: “cùng một bản nhạc, nhưng biểu diễn để cho những cặp khiêu vũ thì phải lôi cuốn, nhịp nhàng, réo rắt, dồn dập; còn trong buổi hòa tấu thì phải thể hiện được chất thơ, đưa thính giả đến với dòng sông. Dung hòa được hai điểm ấy không dễ. Nhưng đó chính là chìa khóa thành công”.
Thực ra sông Danube chưa bao giờ khoác lên mình chiếc áo màu xanh lơ như tên bản nhạc của Johann Strauss. Con sông dài hơn 2.800km khi thì màu nâu, lúc váng óng như lụa, lúc ngả màu xanh lục tùy theo ánh mặt trời. Tại sao Strauss lại gọi đấy là Dòng sông xanh? Nhiều người cho rằng, bởi đó là màu của hy vọng mà những cô con gái thủy thần ngự trị trên dòng sông đã thổi vào hồn nhạc sỹ. Năm 1939, thời điểm đen tối nhất của châu Âu, gót giày của lính Đức Quốc xã rền vang trên nước Áo, Dàn giao nhạc giao hưởng Vienna đặt ra truyền thống tổ chức hòa nhạc vào ngày cuối cùng trong năm với những bản valse để xua tan không khí chiến tranh. Kể từ năm 1958, chương trình hòa nhạc đầu năm của Dàn nhạc giao hưởng Vienna không bao giờ quên Dòng sông xanh. Theo truyền thống, sau điệu valse với Dòng sông xanh của Johann Strauss con, bao giờ cũng là bản Marche de Radetzky của Johann Strauss cha với điệu quân hành. Đâu đó như thể người Áo muốn bày tỏ lòng biết ơn với cả hai bố con Strauss.