Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam những chứng cứ lịch sử

14/06/2014 09:03

Việt Nam là Nhà nước đầu tiên phát hiện, xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa

Quá trình hình thành và xác lập chủ quyền và lợi ích quốc gia trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta có thể chia thành 4 giai đoạn:

Thời kỳ phong kiến

Có thể thấy cho đến thế kỷ XVII, hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là các đảo vô chủ và nhà nước phong kiến Việt Nam đã phát hiện và làm chủ hai quần đảo. Các triều đại phong kiến tổ chức các đội ra khai phá và thu lượm hải vật ở một số đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng chưa duy trì được sự có mặt thường xuyên trên các quần đảo. Các hoạt động quản lý và khai thác hai quần đảo của nhà nước phong kiến Việt Nam được lưu lại trong các tài liệu lịch sử.

Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “Đội Hoàng Sa” (Cát Vàng) lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thu lượm hàng hóa của các tàu đắm, đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp triều đình. Theo hiểu biết địa lý lúc bấy giờ, địa danh quần đảo Hoàng Sa liền một dải, bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa. Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn tổ chức thêm “Đội Bắc Hải” lấy người thôn Tứ Chính, xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấy phép ra quần đảo Trường Sa làm nhiệm vụ như đội Hoàng Sa. Các hoạt động của Nhà Nguyễn tại Hoàng Sa và Trường Sa được lưu lại không chỉ trong tài liệu lịch sử của nhiều tác giả trong nước như “Toản tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá tự Công Đạo (1686) hay “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776) mà còn được người nước ngoài ghi chép lại khi họ đến làm ăn, sinh sống tại Việt Nam. Ngày nay, trên đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vẫn còn các di tích, gia phả dòng họ liên quan đến đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải. Vào tháng 3 âm lịch hàng năm, bà con Lý Sơn lại tổ chức lễ “Khao lề thế lính Hoàng Sa” trọng thể để tri ân các thế hệ đi trước và giáo dục truyền thống của cha ông trong khai thác và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo.

Ngoài nhiệm vụ khai thác hải sản và các khí cụ, hàng hóa trên các tàu đắm, Nhà Nguyễn còn cử người đi đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, trồng cây trên hai quần đảo liên tục trong các năm 1834, 1835 và 1836. Bằng việc tổ chức khai thác tài nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hàng thế kỷ, trên thực tế cũng như về pháp lý, Nhà Nguyễn đã làm chủ và giành quyền sở hữu hai quần đảo, khi hai quần đảo còn chưa thuộc lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào, biến hai quần đảo từ vô chủ thành bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.

Thời kỳ Pháp thuộc

Do luật pháp thời đó quy định lãnh hải rộng 3 hải lý và vùng đánh cá rộng khoảng 20km nên các hoạt động trên biển của Việt Nam rất hạn chế. Vào những năm 1930, người Pháp bắt đầu đưa quân ra quần đảo Hoàng Sa và xác định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.

Trong thời kỳ này, Chính phủ Pháp đã có nhiều hoạt động củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo với tư cách là người kế thừa danh nghĩa chủ quyền của triều đình phong kiến Việt Nam. Từ những năm 1925 và 1927, Pháp đã tổ chức điều tra trên Hoàng Sa và duy trì tuần tra trên quần đảo. Liên tục trong các năm 1930 - 1933, Pháp đã đưa quân đội ra đóng ở Trường Sa.

Ngày 26.7.1933, Chính phủ Pháp tuyên bố Hải quân Pháp chiếm hữu các đảo Trường Sa, An Bang, Ba Bình, Song Tử Đông và Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ cũng như các đảo nhỏ, đá và bãi cạn phụ thuộc của quần đảo này và cùng ngày đăng Công báo công khai việc chiếm hữu này. Ngày 21.12.1933, Thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer ra Nghị định số 4762-CP sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ). Ngày 30.3.1938, Hoàng đế Bảo Đại ra Dụ số 10 (ngày 29.2 năm Bảo Đại thứ 13) tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Ngãi đặt vào tỉnh Thừa Thiên. Ngày 15.6.1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ra Nghị định số 156-S-V thành lập một đơn vị hành chính ở quần đảo Hoàng Sa, tỉnh Thừa Thiên. Trong năm 1938, Pháp đã tiến hành dựng bia chủ quyền ở đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa, trên cột mốc có ghi dòng chữ: “Cộng hoà Pháp, Đế quốc Annam, quần đảo Hoàng Sa - 1816, đảo Hoàng Sa (Pattle) - 1938”. Pháp cũng xây xong một hải đăng, lập trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện ở đảo Hoàng Sa (quần đảo Hoàng Sa) và một trạm khí tượng ở đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Ngày 5.5.1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brévié ký Nghị định số 3282 tách quần đảo Hoàng Sa ra làm hai đơn vị hành chính “Croissant và các đảo phụ thuộc” (Lưỡi Liềm) và “Amphitrit và các đảo phụ thuộc” (An Vĩnh). Trước các ý định đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa trong những năm 1931 - 1932, Pháp đều lên tiếng phản đối.

Ngày 14.10.1950, Pháp chính thức chuyển giao lại việc quản lý quần đảo Hoàng Sa cho Chính phủ Bảo Đại. Tại Hội nghị San Francisco (năm 1951), Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ Bảo Đại, ông Trần Văn Hữu đã khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với hai quần đảo mà không gặp phải ý kiến phản đối nào. Về hành chính, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (năm 1956) và chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên về tỉnh Quảng Nam quản lý (năm 1961).

Mới đây, nhân dân đã hiến tặng nhà nước giấy khai sinh của bà Mai Kim Quy, con gái của ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng và bà Nguyễn Thị Thắng, trong đó ghi rõ: bà Mai Kim Quy sinh lúc 15 giờ ngày 7.12.1939 tại đảo Hoàng Sa (Pattle), quần đảo Hoàng Sa. Giấy khai sinh được đơn vị hành chính Pháp tại nhóm Lưỡi Liềm, quần đảo Hoàng Sa, bảo hộ Vương quốc An Nam cấp ngày 28.6.1940, trên Giấy khai sinh còn ghi rất rõ tên hai người làm chứng cũng như chữ ký và con dấu của đơn vị hành chính này.    

Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1977

Khi Trung Quốc chiếm đóng trái phép các đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa (tháng 4.1956), sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa (tháng 1.1974) và một số bãi ngầm ở quần đảo Trường Sa (tháng 3.1988 và tháng 1.1995), chính quyền Việt Nam trong mỗi thời kỳ đã cực lực lên án và kiên quyết phản đối. Các mốc nổi bật là ngày 20.1.1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra Tuyên bố 3 điểm phản đối hành động dùng vũ lực của Trung Quốc ở Hoàng Sa; ngày 14.2.1975, Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài Gòn) công bố Sách trắng khẳng định các quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Tháng 4.1975, ta giải phóng và tiếp quản 6 vị trí đóng quân của chính quyền Sài Gòn trên quần đảo Trường Sa (là các đảo Trường Sa, Sơn Ca, Nam Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn và An Bang).

Từ năm 1977 đến nay

Thời kỳ này ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng trong quản lý và khai thác biển, nhận thức đầy đủ về vị trí và vai trò của Biển Đông trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước. Các văn bản đó là Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (năm 1977), Tuyên bố quy định về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (năm 1982), Nghị quyết của Quốc hội  phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật biển năm 1982 (năm 1994), ban hành Luật Biên giới quốc gia (năm 2003), Luật biển Việt Nam (năm 2012). Đặc biệt, chúng ta đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt” (ngày 6.5.1993) và Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (ngày 9.2.2007), là những văn bản chỉ đạo, định hướng cho phát triển kinh tế biển của đất nước.

Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, hiện nay, huyện Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Tháng 4.2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2007/NĐ-CP điều chỉnh địa giới hành chính một số huyện của tỉnh Khánh Hòa, trong đó thành lập thị trấn Trường Sa, xã Song Tử Tây và xã Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa. Hiện nay, trên các đơn vị hành chính này đã có UBND, bệnh xá, trường tiểu học, đời sống bà con ngày càng ổn định và phát triển. 

Trước việc Trung Quốc gây xung đột vũ trang và chiếm đoạt một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa, ngày 14.3.1988, Bộ Ngoại giao ta đã ra Tuyên bố lên án hành động này của phía Trung Quốc, trong các năm 1979, 1981 và 1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã 3 lần công bố Sách trắng về 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. 

Năm 1992, Việt Nam ký Tuyên bố ASEAN về Biển Đông. Từ năm 1994, đưa đề nghị “tôn trọng nguyên trạng” trong khi chờ đàm phán giải quyết. Năm 1995, đàm phán về vấn đề trên biển với Trung Quốc, thỏa thuận về nguyên tắc ứng xử với Philippines và từ năm 1996 triển khai hợp tác khảo sát khoa học biển song phương với Philippines. Năm 2002, ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trong Biển Đông (DOC). Năm 2005, ký Thỏa thuận 3 bên Việt Nam - Trung Quốc - Philippines về khảo sát địa chấn ở Trường Sa. Năm 2003, Quốc hội ta thông qua Luật biên giới quốc gia, khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 2004, tại đàm phán cấp Chính phủ Việt Nam - Trung Quốc, ta đưa ra quan điểm về “Hợp tác cùng phát triển” với các nội dung chính là chỉ hợp tác ở những nơi thực sự có tranh chấp trên cơ sở đồng thuận của các bên liên quan, tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mỗi nước, phù hợp với Công ước Luật Biển 1982 và Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). 

Cho đến nay, ta đã ký một số thỏa thuận trên biển với các nước láng giềng: Hiệp định vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia (năm 1982), Thỏa thuận khai thác chung vùng chồng lấn thềm lục địa Việt Nam - Malaysia (năm 1992), Hiệp định về phân định ranh giới biển Việt Nam - Thái Lan (năm 1997), Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc (năm 2000) và Hiệp định phân định thềm lục địa Việt Nam - Indonesia (năm 2003). Chúng ta đang tiến hành đàm phán với Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan... nhằm giải quyết dứt điểm các vùng chồng lấn biển với các nước này, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982.

Tóm lại, chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử - pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo một cách liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Tuyên bố này được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khẳng định rõ ngày 25.11.2011 tại Kỳ họp thứ Hai QH Khóa XIII ‘‘Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử để khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự hai quần đảo này ít nhất từ thế kỷ XVII, khi đó hai quần đảo chưa thuộc về bất kỳ quốc gia nào. Và trên thực tế, Việt Nam đã làm chủ liên tục, hòa bình hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa’’.

Tài liệu của Ủy ban Biên giới Quốc gia

    Nổi bật
        Mới nhất
        Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam những chứng cứ lịch sử
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO