Hoàn thiện cơ chế xử lý vướng mắc pháp luật
Góp ý tại tổ chiều 20/6 đối với Dự thảo Nghị quyết về cơ chế xử lý các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, các đại biểu Đoàn ĐBQH Hà Tĩnh, Ninh Thuận và Hải Dương nhấn mạnh sự cần thiết hoàn thiện phạm vi áp dụng, nguyên tắc và quy trình thực hiện. Đồng thời, bảo đảm chặt chẽ, minh bạch, không tạo tiền lệ lạm dụng chính sách.
Rà soát chặt, bảo đảm không bị lợi dụng
Cơ bản nhất trí với nội dung Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế xử lý vướng mắc, khó khăn do quy định pháp luật và các tài liệu liên quan, đại biểu Đinh Thị Ngọc Dung (Hải Dương) cho rằng, cần làm rõ hơn khái niệm “khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật” để bảo đảm áp dụng đúng đối tượng, tránh bị lợi dụng.
Theo đại biểu, chỉ nên áp dụng cơ chế xử lý đối với những trường hợp mà quy định pháp luật hiện hành chưa rõ ràng, còn chồng chéo hoặc không khả thi, ảnh hưởng tiêu cực đến việc triển khai chính sách. Không nên vận dụng cơ chế này để hợp thức hóa sai phạm hoặc phục vụ lợi ích nhóm.
Thực tiễn đã cho thấy có những đề xuất tháo gỡ cho dự án chậm tiến độ, song nguyên nhân lại không đến từ vướng mắc pháp lý mà do chủ đầu tư yếu kém, thiếu năng lực tài chính. Đây là vấn đề thuộc về quản lý, không thể coi là khó khăn do pháp luật.

Từ đó, đại biểu đề nghị Dự thảo cần xác định rõ đối tượng áp dụng và trách nhiệm của cơ quan thực hiện, bảo đảm minh bạch, hiệu quả. Bên cạnh đó, cần bổ sung cơ sở xác định “khó khăn, vướng mắc” là căn cứ để Chính phủ ban hành nghị quyết điều chỉnh các quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội. Việc xác định này phải dựa trên phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân; đồng thời đánh giá cụ thể tác động tiêu cực, chứng minh sự cần thiết phải sửa đổi.
Cùng với đó, đại biểu nhấn mạnh các nguyên tắc cần được làm rõ trong Nghị quyết, gồm: công khai, minh bạch, giải trình đầy đủ, xử lý từng trường hợp cụ thể theo đúng quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý, không tạo ra tiền lệ “xin – cho”.
Bảo đảm tính hợp hiến, kỹ thuật lập pháp
Góp ý tại tổ, đại biểu Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) tập trung làm rõ các nội dung cụ thể trong dự thảo. Theo đó, về Điều 4 phương án xử lý vướng mắc, khó khăn do quy định pháp luật, đại biểu cho rằng cụm từ “ban hành văn bản để điều chỉnh…” không phù hợp với kỹ thuật lập pháp, cần sửa lại thành “ban hành văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ các quy định hiện hành”.
Tại khoản 5, khoản 6 Điều 4, quy định thẩm quyền xử lý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đại biểu đề nghị gộp nội dung này vào khoản 2 Điều 4 để bảo đảm logic, đồng thời khẳng định rõ việc thực hiện theo quy trình của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Về nguyên tắc xử lý (Điều 5), đại biểu đề nghị bổ sung nguyên tắc “bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, nhằm ngăn ngừa tình trạng sửa luật để giải quyết cục bộ, phát sinh mâu thuẫn mới trong hệ thống pháp luật.
Đối với quy trình xây dựng, ban hành văn bản, đại biểu đề nghị cần phân định rõ trường hợp nào do cơ quan ban hành văn bản, trường hợp nào do cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện, tránh gây lúng túng khi triển khai. Đồng thời, đề nghị sửa cụm từ tại điểm b khoản 1 thành “kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều này” để bảo đảm rõ ràng và phù hợp tiến độ. Cũng cần bổ sung quy định về thời hạn trả hồ sơ không hợp lệ nhằm bảo đảm quy trình thẩm định diễn ra đúng quy định, không bị kéo dài.
Về tổ chức thực hiện (Điều 6), đại biểu đề nghị bổ sung trách nhiệm của Chính phủ và các cơ quan liên quan trong chủ động rà soát, xác định danh mục các văn bản gây cản trở, ách tắc để chuẩn bị triển khai Nghị quyết hiệu quả, đúng mục tiêu.
Cũng tại phiên thảo luận, liên quan đến Hội đồng thẩm định độc lập, các đại biểu đề nghị làm rõ địa vị pháp lý của Hội đồng này so với các hội đồng thẩm định hiện hành, như Hội đồng thẩm định của Bộ Tư pháp; đồng thời, cần nêu rõ căn cứ, lý do thành lập và sự khác biệt về chức năng, vai trò, hiệu quả.
Đáng chú ý, các đại biểu cũng thống nhất đề nghị tách khoản 3 và khoản 4 Điều 4 thành một điều riêng, quy định cụ thể về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để xử lý vướng mắc. Theo đó, cần có quy định thống nhất về cách đánh số, ký hiệu văn bản nhằm bảo đảm minh bạch, dễ tra cứu và theo dõi thực hiện trong thực tiễn.