Hộ tịch và hộ khẩu
Cái cuốn sổ chúng ta cầm có đủ cha mẹ vợ con anh em trong một nhà là sổ hộ tịch, ở đó có nhiều nhân khẩu (miệng ăn), nhà đông có năm mười mười lăm hai mươi, nhà ít có năm ba, ít hơn có hai có một. Từng người trong nhà ấy gọi là khẩu - còn gọi là sổ hộ khẩu vì lẽ đó.
Hộ tịch: Sổ sách đăng ký mối quan hệ lệ thuộc - Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng, tr 408, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1991
Hộ: Nhà, đơn vị để quản lý dân số hộ khẩu, hộ tịch, tr 181 (SĐD)
Khẩu: Mồm, miệng từng đơn vị riêng lẻ (để ăn uống). Nhân khẩu. tr 202 (SĐD)
Sổ hộ tịch hay sổ hộ khẩu. Xưa - nay là thế.
Nay bỗng dưng tịch (hồ sơ, chết hay sống) và khẩu (miệng ăn còn và mất) khác nhau và định nghĩa bất ngờ cũng khác.
Tiếc là chưa có từ điển của cơ quan dân cử. Tiếc là chưa có từ điển của người làm pháp luật nên tra, nên hiểu thế nào thì tùy...
Hôm trước, cũng lại thật bất ngờ khi nghe có người bảo Tòa soạn là cái nhà, tôi là cơ quan chủ quản một cơ quan báo chí khi tra từ điển, thấy tôi chỉ được quản lý cái nhà. Ơ hay, người ra người vào trong cái nhà ấy thì sao? Ồ, thì ra khi muốn người ta kiểm soát cái nhà và người trong cái nhà. Khi không, thì Tòa soạn chỉ là cái xác nhà. Hộ tịch và hộ khẩu là cái tương tự có vẻ như thế.