Hiệu quả của quản lý rừng bền vững
Bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên là nhiệm vụ quan trọng nhất của chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững. Trong bối cảnh hội nhập, yêu cầu cấp thiết đặt ra là quản lý hiệu quả để phát triển rừng bền vững. Để gia nhập xu hướng chung của thế giới, Việt Nam cần đẩy mạnh công tác quản lý rừng bền vững, cấp chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn phù hợp với quy định, thông lệ của quốc tế, mở cửa thị trường cho thương mại, xuất nhập khẩu lâm sản.
Xu hướng chung của thế giới
Hiện nay, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng diện tích rừng tự nhiên đang giảm đi đáng kể. Điều này là do những tác động khai thác lâm sản cả hợp pháp và bất hợp pháp, bên cạnh việc chuyển đổi đất lâm nghiệp sang trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng công trình thủy điện, nhà ở… Theo số liệu của Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO), hàng năm diện tích rừng tự nhiên trên toàn cầu mất đi khoảng 9 triệu ha. Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống của Liên Hợp Quốc và các chính phủ như tăng cường luật pháp, tham gia các công ước thì không thể hoàn toàn bảo vệ được diện tích rừng tự nhiên hiện còn của nhân loại, đặc biệt là các khu rừng nhiệt đới còn sót lại tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng được cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập cơ chế quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng cho các sản phẩm lâm nghiệp đầu ra. Theo tổ chức Gỗ nhiệt đới Quốc tế (ITTO) thì: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý các khu rừng cố định nhằm đạt một hoặc nhiều hơn các mục tiêu quản lý đã được đề ra một cách rõ ràng. Như vậy, quản lý rừng bền vững là phải bảo đảm bền vững được 3 yếu tố: kinh tế, môi trường và xã hội.”

Tại châu Âu, Phần Lan là quốc gia có diện tích rừng che phủ lớn nhất với 86% diện tích đất là rừng. Vai trò của rừng vô cùng quan trọng đối với quốc gia này bởi nó cung cấp gỗ, thực phẩm (nấm, các loại quả), không khí trong lành và là nhà của nhiều loại thực vật, động vật, côn trùng, vi sinh vật. Quyền sở hữu rừng được pháp luật bảo vệ và chứng nhận tự nguyện. Điều này có nghĩa là chủ rừng phải bảo đảm rằng sau khi khai thác thì một khu rừng mới sẽ được trồng thay thế rừng đã chặt. Hầu hết các khu rừng thương mại trong cả nước đều được chứng nhận PEFC và tiêu chuẩn FSC với tỷ lệ tương ứng mỗi loại là 90% và 6%. Chứng nhận xác lập tiêu chuẩn về lâm sinh và giúp nâng cao sự đa dạng sinh học rừng của Phần Lan. Tại châu Á, Nhật Bản là quốc gia có đến 68,6% diện tích đất là rừng che phủ, đứng thứ 17 trên thế giới. Nhật Bản đã đối mặt với những thách thức về môi trường bằng những phương pháp tích cực từ việc sử dụng rừng không bền vững trở nên bền vững hơn bắt đầu từ những năm 1970. Các cộng đồng địa phương đóng vai trò trung tâm của các hoạt động xúc tác và tăng cường mối quan hệ phản hồi tích cực, tạo thuận lợi cho các quá trình xã hội được thực hiện. Nhật Bản đã tiến hành nghiên cứu và phát triển những hệ thống quản lý rừng giúp đơn giản hóa việc lập kế hoạch quản lý và tái tạo rừng. Hệ thống này hoạt động như một công cụ hỗ trợ cho công tác quản lý và lập kế hoạch lâm nghiệp.
Hiệu quả quản lý rừng bền vững tại Việt Nam
Quản lý và phát triển rừng bền vững là một trong 3 Chương trình phát triển của Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, đang được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) đẩy mạnh thực hiện nhằm mục tiêu quản lý, phát triển và sử dụng rừng bền vững, có hiệu quả, đáp ứng cơ bản nhu cầu lâm sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội. Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp năm 2017 diện tích rừng trên toàn quốc có 14.415.381ha; trong đó, rừng tự nhiên có 10.236.415ha; rừng trồng có 4.178.966ha. Diện tích rừng đủ tiêu chuẩn để tính độ che phủ toàn quốc là 13.717.981ha, độ che phủ tương ứng là 41,45%. Để đạt được kết quả trên Tổng cục Lâm nghiệp tập trung vào 3 nhóm biện pháp chính để giữ và tăng độ che phủ rừng là: Tăng cường công tác bảo vệ và Phòng cháy, chữa cháy rừng; rà soát và kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng; đẩy mạnh phát triển rừng
Trong năm 2017, Tổng cục Lâm nghiệp đã phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành Nghị quyết số 134/2016/QH13 ngày 09/4/2016 điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) cấp quốc gia. Kết quả thực hiện trồng được hơn 193.000ha rừng tập trung, phát hiện 15.439 vụ vi phạm, giảm 4.460 vụ so với cùng kỳ 2016 (giảm 22%), xảy ra 176 vụ cháy rừng, diện tích cháy bị thiệt hại 352ha, giảm 2.762ha (89%) so với cùng kỳ năm 2016, phát hiện 6.237 vụ vận chuyển, mua bán trái pháp luật gỗ và lâm sản. Theo đó, mục tiêu đến năm 2020 giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt từ 5,5 đến 6,0%/năm; tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc đạt 42%, diện tích rừng các loại đạt 14,4 triệu ha.
Việt Nam là 1 trong 6 nước đầu tiên trên thế giới được lựa chọn tham gia Quỹ đối tác Các-bon trong lâm nghiệp (FCPF) do Ngân hàng Thế giới (WB) quản lý và Chương trình giảm phát thải khí nhà kính gây ra do mất rừng và suy thoái rừng của Liên Hợp quốc (UN-REDD). Bộ NNPTNT đặc biệt quan tâm và ủng hộ việc thực hiện Chương trình REDD và FCPF. Bởi hiện nay phá rừng và suy thoái rừng là nguyên nhân quan trọng làm tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính dẫn tới biến đổi khí hậu.Trong những năm tới Việt Nam sẽ thực hiện các giải pháp đồng bộ cải thiện và mở rộng diện tích rừng giàu, rừng kín, rừng nguyên sinh; ngăn chặn và đẩy lùi nạn phá rừng, cháy rừng và khai thác bừa bãi vốn rừng; tăng cường hơn nữa công tác bảo tồn các khu vực giàu đa dạng sinh học, đi đôi với quản lý, bảo vệ chặt chẽ việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên.