Hạt giống (Phần cuối)
Truyện ngắn của Hoàng Công Danh
Có khi hội đồng đến giải tỏa dân không chịu hợp tác, đòi thêm tiền đền bù. Đằng này thầy bảo xin tự nguyện hiến đất chùa là có cơn cớ chi đây. Giữa một đám đông nhiễu nhương nhốn nháo, lại có người lặng yên. Đầy rẫy kẻ chờ thời cơ toan tính chỉ chực hở ra là moi tiền nhà nước, lại nảy ra một người vô tư vô lợi. Tốt bụng quá mức dễ bị nghi ngờ trong một chốn mất mát niềm tin.
Chủ tịch ngần ngại.
- Vẫn biết nhà chùa vốn rộng rãi công đức. Nhưng còn Phật tử, họ có phàn nàn gì không.
- Các anh đừng quá bận tâm. Vì việc chung thì bà con họ cũng hoan hỷ thôi. Pháp Phật đâu phải chỉ nằm ở chùa, đúng không anh.
- Cảm ơn quý thầy. Được thế thì tốt quá. Chúng tôi sẽ bàn lại và báo với nhà chùa.
- Nói thật với các anh. Tôi cũng không muốn chùa nằm gần một con đường lớn như thế. Cuộc sống xô bồ quá, các đệ tử trong chùa khó mà toàn tâm toàn ý tu học được.
![]() Minh họa của Thúy Hằng |
Bao nhiêu người muốn nhà mặt tiền. Vừa để trưng diện, vừa dễ làm ăn kinh doanh. Đất mặt đường đắt đỏ, đúng nghĩa tấc đất tấc vàng, mà vị sư lại mặc nhiên quá. Ông chủ tịch nghĩ, giá người ta cũng nghĩ cho được thế.
- Vậy, thầy định cất chùa ở đâu. Nếu quý thầy có ý nhắm chỗ nào thì cho chúng tôi hay.
- Lo gì anh. Đất nào cũng là chỗ gieo hạt giống chánh pháp thôi mà.
*
Quay về chùa, sư Huệ Siêu nhủ đại đức Từ Chân pha trà. Gần trưa rồi, giờ này có bao giờ thầy sư phụ uống trà đâu. Chắc do hôm nay trời đẹp, không nắng, cũng không mưa. Đang buổi giêng hai còn đầy khí xuân, sương chưa ráo hết trên mấy đọt chè.
- Thầy Từ Chân năm nay cũng tứ tuần rồi nhỉ?
- Dạ. Theo như sư phụ tính, từ hồi nhặt được con, là vừa chẵn bốn mươi.
- Tứ thập nhi bất hoặc. Cổ nhân nói vậy thật chẳng sai. Bốn mươi thì đã biết phải trái việc mình làm. Ngày xưa bằng tuổi thầy, ta cũng được sư phụ cho cất riêng một ngôi chùa. Tự lập dễ đi được xa hơn. Con tuấn mã thoát khỏi dây cương, tuy có khó khăn hướng đi, nhưng lại tìm đến được chỗ cỏ thơm. Cứ cầm cương mà dẫn dắt, ngựa ta chỉ biết cúi đầu chạy theo, mà người xà ích có phải lúc nào cũng đúng đâu.
- Ý sư phụ là… - Đại đức Từ Chân lấp lửng.
- Có lẽ cho thầy ra riêng được rồi. Ta đã tuổi tri thiên mệnh, đường đạo thì chưa tới đâu. Để thầy đi theo ta nhỡ bị lạc đường.
- Bạch thầy. Con chưa bao giờ dám nghĩ đến điều đó. Con được sư phụ nuôi nấng chăm bẵm từ nhỏ, dìu dắt theo con đường tịnh độ. Quả, đó là phước đức lắm rồi.
- Thầy không nên tin vào ta. Mà cũng đừng tin vào ai cả. Đức Bổn sư ngày xưa dạy rồi, chỉ tin vào mình thôi. Như ngón tay chỉ mặt trăng. Cái cần thấy là mặt trăng, chứ chăm chăm nhìn vào ngón tay người ta làm gì.
- Dạ, con hiểu. Nhưng, sư phụ cũng có tuổi rồi. Con phải ở lại đây…
Đại đức Từ Chân nói đến đó thì nghẹn đi. Một sự xao xuyến trỗi lên. Càng cố ghìm lại càng trào mạnh. Gió vào nhà trống. Cánh cửa tâm hồn càng mở ra thì xúc cảm ùa về nhiều hơn. Thầy Từ Chân muốn khóc. May ghìm được. Thầy đã bốn mươi tuổi đời, cũng ngần ấy tuổi đạo, chốn thiền môn tìm niềm an lạc sao lại để thứ nước lụy tục rỉ rả.
Sư phụ mỉm cười.
- Thầy cứ lo cho con đường lớn của mình đi. Giáo hóa độ sinh mới là việc quan trọng. Thân ta chỉ là giả hợp. Thầy lo được cho chúng sanh một là như lo cho ta được mươi phần rồi.
*
Sư Huệ Siêu ký giấy tờ đồng ý cho giải tỏa khuôn viên đất chùa. Cống hiến không một đòi hỏi bồi thường hay bố trí chỗ đất nào khác. Thầy Từ Chân đứng bên, có chút hoang mang. Rồi mai chùa ở đâu. Vẫn biết pháp Phật không chỉ nằm ở chùa, nhưng người tu hành cũng cần một nơi trú ngụ chớ.
- Đức bổn sư ngày xưa đâu có ngụ nơi chốn cụ thể nào. Cái nơi ngài thành đạo bấy lâu nay cũng tan hoang bỏ mặc. Thế mà giáo pháp của ngài thì lan xa tiến rộng, mang lại cho chúng sanh bao nhiêu điều tốt đẹp. Tam bảo là Phật - pháp - tăng, không có nhắc tới đền đài miếu vũ.
Sư Huệ Siêu vừa nhấp nhà, vừa nói, cứ như đọc được ý nghĩ của sư đệ.
Thầy Từ Chân nhìn lên mái ngói. Rường gỗ cột kèo mấy chục năm rồi vẫn thế. Cứ tới mùa mưa chỗ nào dột thầy trò cùng nhau trát trít thay sửa. Nhiều người hảo tâm phát nguyện cúng dường xây lại ngôi chùa. Lần nào sư phụ cũng khước từ. Chùa nếu có dôi dả đất thì làm cái vườn rộng, trồng cây xanh cho người ta đến vãn cảnh. Chánh điện chỉ cần trang nghiêm thanh tịnh. Phô trương ra làm gì, đẹp quá lại dễ lún vào si mê.
Nhớ hồi thầy Từ Chân còn là chú tiểu, có lần cùng sư thầy Huệ Siêu đi thăm một ngôi chùa xa. Lúc về, điệu Chân hỏi thầy ơi sao chùa mình không xây to đẹp như thế. Sư thầy cười bảo con thích thì thầy cho qua bên đó ở. Chùa đẹp thì nhiều, mà ham muốn lại vô cùng. Nhưng ngôi chùa này Chân không rời đi được. Nó mặc nhiên là cái nhà là quê quán từ khi người ta bỏ Chân ở đây. Chân gọi cái người bỏ mình trước cửa chùa là “người ta”, dửng dưng như thế. Chỉ có người không máu mủ mới dạn tay, chứ cha mẹ thì đời nào nỡ bỏ con. Nghĩ thế cho đỡ tủi thân. Có lần điệu Chân đọc sách pháp, thấy có câu: gặp thời không có Phật, thờ cha mẹ ấy là thờ Phật vậy. Đọc xong ngẩn ra buồn.
Giờ bốn mươi tuổi rồi, nghĩ cái gốc gác làm chi nữa. Thầy Từ Chân cũng không còn trách cứ gì chuyện người ta bỏ mình. Ngược lại, thỉnh thoảng còn hàm ơn. May rơi được chỗ này, không chưa chắc sống tới hôm nay.
Ấy là thầy Từ Chân nhìn rường cột mà nhớ chuyện xưa. Nuột lạt mấy chục năm nay cũ xì đen xám. Thời gian làm cho mọi thứ già đi. Há chăng sanh lão bệnh tử đâu chỉ cõi người đeo mang. Mai rồi đi khỏi ngôi chùa biết bao kỷ niệm cũng buồn lắm. Còn sư ông nữa, thầy Từ Chân đi thì lấy ai chăm sóc. Cũng may trời cho sư ông còn mạnh khỏe, minh mẫn. Đã thất thập mà mọi việc cá nhân thầy tự lo được hết, kể cả việc giặt y áo. Thầy không cho ai đụng vào, bảo để làm cho vui, làm mới biết mình còn sống.
Sư phụ rót cho đại đức Từ Chân một chén trà. Thầy Từ Chân vội vàng đưa tay đỡ lấy cái ấm gốm. Sư phụ ra hiệu cất tay đi.
- Để ta rót cho thầy cũng được chớ sao. Thầy với ta bây giờ như đồng môn rồi. Đều là đệ tử của Phật cả mà thôi. Thầy cũng tu được bốn chục năm rồi, khéo công phu dầy hơn ta nữa ấy chứ.
- Dạ. Con đâu dám. Con vẫn là đệ tử của thầy thôi.
Đại đức Từ Chân lễ phép thưa. Lòng cứ nao nao bồn chồn. Mấy chục năm qua có bao giờ sư phụ rót trà cho mình đâu. Toàn là đệ tử phải rót mời sư phụ. Như thế mới phải phép. Mà đại đức Từ Chân cũng coi đó là bổn phận. Như đứa con hầu cha, như học trò phụng thầy. Bỗng dưng hôm nay thầy lại rót trà mời ngược lại, còn nói những câu khiến thầy khó đoán quá. Nghĩ bậy, không biết sư phụ có ý trách mình không nhỉ. Mấy hôm nay mình có làm gì sai phạm không. Đại đức Từ Chân băn khoăn dò xét chuyện. Tay lấn cấn xoay chén trà, không dám uống. Uống là bất lễ.
- Thầy uống trà đi. Thầy rót trà cho ta mấy chục năm. Giờ ta mời thầy một chén cũng không được sao.
- Dạ. Con xin - đại đức cầm chén lên nhấp chiếu lệ.
- Thầy Từ Chân này. Ta hiến đất chùa cho chánh quyền. Thầy có nghĩ gì không.
- Dạ. Đó cũng là việc phải thôi mà. Sư phụ quyết sao thì con nghe vậy.
Sư phụ cười to hơn, ra bộ thoải mái trò chuyện.
- Ta bảo thầy cứ nói thật suy nghĩ của mình đi. Đừng lấn cấn gì cả. Cứ coi ta là đồng môn thôi, không có trên dưới ở đây.
- Bạch thầy. Con chỉ tiếc địa thế chùa mình. Đất căn cơ do sư tổ chọn lựa mà đến một ngày hoang tàn thì xót lắm.
Sư phụ trầm ngâm. Lại hỏi.
- Thế cái thân ta đến một ngày mệt nhoài hủy hoại. Thầy có tiếc không.
- Lúc đó mình đâu có còn biết gì nữa đâu mà tiếc hả thầy.
- Thì đất nó cũng đâu biết nghĩ như ta. Nó không tưởng, không vướng, không hoài thì cớ chi mình bận bịu. Tất cả suy nghĩ là do loài hữu tình bày ra.
Hai thầy trò, lúc này đang ngồi đối diện nơi hai đòn ghế bằng nhau, cùng bật cười như đã chứng được một công lực.
- Ta kể cho thầy nghe thêm chuyện này. Khi xưa sư tổ gây chùa vùng này còn hoang sơ lắm. Ta lúc đó còn nhỏ xíu, cứ nghĩ chuyện làm chùa khó thành. Đắp một cái nền mất ba năm trời mới xong. Dựng được chùa rồi sư tổ lại bảo sau này sẽ có một con quái vật đêm ngày bò qua chùa. Ta nghe mà sợ. Cho đến khi sư tổ thăng, ta vẫn bị ám ảnh bởi con quái vật mà ngài nói. Sau người ta đặt đường tàu hỏa. Cái đường ray bây giờ còn đấy. Ngày đêm tàu xình xịch chạy qua. Ta mới yên tâm được. Cái sự trườn qua bò về của con quái vật thế mà lại hay. Cứ như có sự chuyển động của cuộc sống bên cạnh chùa vậy.
- Chuyện này giờ con mới nghe. Không ngờ sư tổ nói lời linh nghiệm thế.
- Đúng là cụ tổ khi xưa thật uyên áo. Còn thêm chuyện này mới thâm nho. Sư tổ bảo một con quái vật thì được, nhưng nhiều hơn nữa là có biến, không nên ngụ ở đó nữa. Ta nghĩ cái dự án đường tránh sẽ kéo qua đây rất nhiều xe cộ. Cái sự động đã vượt ra ngoài giới hạn. Thế nên ta xin cống cho chính quyền đất chùa. Vừa lợi cho xã hội, vừa ích cho bản đạo.
Đại đức Từ Chân nghe đã hiểu. Lại cảm phục các bậc sư tiền bối quá chừng. Tu mà thấy được trước chuyện biến dịch để hướng cho đệ tử quả là dầy đức.
*
Bão số tám tràn qua lúc nửa đêm. Sư ông nhủ thầy Từ Chân quấn tăng y lên điện thỉnh chuông đọc kinh. Chuyện đâu còn có đó, trời đất cuống cuồng thì tâm người phải an hơn cả.
Sáng ra rường cột xiêu vẹo. Vườn chùa tơi tả, cây nhỏ gẫy ngọn, cây lớn trục gốc nằm chỏng chơ. Sư phụ thanh thản nhắm mắt trong đêm. Trước khi đi còn tỉnh táo dặn đệ tử:
- Thầy coi mấy cái chỗ gây hạt giống bồ đề, lâu quá rồi ta cũng quên mất.
Đại đức Từ Chân đứng lặng, vẫn biết sư phụ rồi có ngày ra đi, nhưng đột ngột quá khiến thầy hoang mang. Sư phụ lại chẳng dặn dò gì nhiều. Chẳng khai mở hay truyền tâm một ý niệm nào về con đường đạo. Chỉ nhắc nhủ về một thứ hạnh nhân. Hạt bồ đề. Chừng đó thôi cũng đủ. Thầy Từ Chân nghĩ, rồi thong dong khoác tay nải rời chùa.