Hạnh phúc phía sau cổng trời
Những ngày cuối năm trên cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang, rét như cắt da cắt thịt. Trong cái lạnh buốt, tôi cảm nhận hơi ấm từ âm hưởng của thời gian, những cống hiến của con người từâ những thế kỷ trước, để hôm nay chúng ta có thể chiêm ngưỡng và tự hào.
![]() |
Cột cờ Lũng Cú và sức dân trên cao nguyên đá
Trên bản đồ Việt Nam, Lũng Cú là đỉnh “chóp nón” nơi cực Bắc Tổ quốc. Cột cờ Lũng Cú gắn liền với truyền thuyết được lưu truyền trên miền núi đá Đồng Văn: Sau khi đánh thắng quân xâm lược nhà Thanh, Hoàng đế Quang Trung cho đặt một cái trống lớn tại nơi biên ải thuộc địa bàn xã Lũng Cú, nơi hiện nay là Đồn Biên phòng Lũng Cú. Cứ một canh giờ, 3 tiếng trống lại vang lên đĩnh đạc, khẳng định chủ quyền biên giới.
Tiếp bước truyền thống cha anh, trên đỉnh núi Rồng, đồng bào các dân tộc sống tại miền biên ải này đã dựng cột cờ năm 1978. Mất 2 ngày, gần 20 trai tráng đã nâng bổng thân cây nặng hàng tạ để đưa lên đỉnh núi Rồng làm cột cờ bằng gỗ đầu tiên. Năm 2000 - 2002, sức người của Lũng Cú và những chiếc quẩy tấu thô mộc lại kéo lên đỉnh núi cao gần 1.700m (so với mặt nước biển) gần 2 tấn thép, 8.000 viên gạch, gần 70m3 đá và cát để dựng nên cột cờ xây vững chãi hơn, bề thế hơn. Gần 10 năm sau, cột cờ Lũng Cú lại được khởi công trùng tu, nâng cấp từ ngày 8.3.2010, sau 196 ngày thi công đã hoàn thành và khánh thành vào ngày 25.9.2010. Cột cờ mới cao 29,5m (hơn cột cờ cũ 10m), theo kiểu cột cờ Hà Nội; chân, bệ có 6 mặt phù điêu mang nét hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Tiếng trống của cha ông từ thuở xưa và sắc đỏ lá cờ Tổ quốc 54m2 hôm nay bay hiên ngang trên bầu trời địa đầu là một lời nhắc nhở với cháu con về chủ quyền đất nước.
Năm tháng đã qua đi, những con người đã góp phần giữ gìn cờ thiêng sông núi trong suốt hơn 40 năm qua giờ ở đâu? Theo dấu chân lịch sử, tôi tìm tới ông Hùng Đình Quý. Ở vào tuổi xưa nay hiếm, ông Quý dẫn tôi theo những câu chuyện kể về việc mở đường từ Ma Lé đi Lũng Cú, về quá trình dựng cột cờ đầu tiên. “Năm 1978, tôi là Phó chủ tịch UBND huyện Đồng Văn phụ trách văn xã. Đường lên Lũng Cú chỉ là đường mòn và đá tai mèo cheo leo. Để giúp đồng bào bớt khổ, tôi đã đề nghị tỉnh cho mở con đường từ Ma Lé đi Lũng Cú. Trước ngày khai thông con đường, phụ nữ ở Phó Bảng may cờ, 20 thanh niên trai tráng đi khắp dốc núi cheo leo để tìm cây thông cao 12m làm cột cờ. Đường trơn dốc cheo leo, phải mất 2 ngày, cột cờ mới được cắm trên đỉnh núi rồng, khẳng định chủ quyền dân tộc”. Trong quá trình trò chuyện, đôi mắt của vị lão thành cách mạng ấy luôn có niềm tin vào tương lai hạnh phúc cho đồng bào trên Cao nguyên đá.
Hơn 20 năm sau (năm 2000), cột cờ bằng gỗ ngày ấy được thay bằng cột cờ xây vững chãi hơn. Người đứng mũi chịu sào của huyện Đồng Văn thời ấy - ông Trần Quang Hà, nguyên Bí thư huyện Đồng Văn, nay là Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Hà Giang. Tâm huyết, yêu Đồng Văn, ông Hà say sưa kể về quá trình xây dựng cột cờ Lũng Cú. Ngày ấy, huyện Đồng Văn đã phải tiết kiệm ngân sách trong 2 năm để hoàn thành cột cờ. Nhân công chủ yếu vẫn là sức dân Lũng Cú. Bà con toàn dùng quẩy tấu để gùi đá lên xây bậc, rải đường. Sau khi hoàn thành công trình, ông xuống Hà Nội, tới nhà may Trường Thịnh - Trần Thị Vượng, tại 44 Hàng Bông, đặt may cờ. Cờ đã may, song vấn đề treo cờ thật gian truân. Ban đầu chưa có ròng rọc, các chiến sỹ Đồn biên phòng Lũng Cú đã phải thắt dây bảo hiểm, đu mình giữa mênh mông gió ngàn để treo cờ.
Cột cờ Lũng Cú hôm nay đã được xây dựng mới, đoàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Vui mừng và tự hào lắm. Nhưng sao tôi vẫn nhớ tới chuyện kể về cột cờ bằng tre, gỗ năm nào, nhớ con đường mòn ngoằn ngoèo mà mỗi khi lên cột cờ phải bấu tay vào lưng núi để bò lên. Cảm giác chạm tay vào đất mẹ thiêng liêng, rưng rưng...
![]() |
Ảnh: An Thành Đạt |
Con đường Hạnh phúc
5 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cao nguyên đá Đồng Văn mênh mông vẫn chưa có đường cho xe máy đi vào, chứ chưa nói đến đường ôtô. “Phía sau cổng trời” là hơn 8 vạn đồng bào chìm trong đói nghèo, lạc hậu. Trung ương quyết định mở đường Hà Giang - Đồng Văn - Mèo Vạc. Con đường dài gần 200km, chạy xuyên qua cao nguyên đá Đồng Văn, qua đỉnh Mã Pì Lèng, mang tên: Đường Hạnh phúc. Đường Hạnh phúc ra đời với những kỷ lục của tuổi trẻ Việt Nam: thanh niên của 8 tỉnh, 16 dân tộc cùng phá đá mở đường, huy động hơn 2 triệu ngày công trong 8 năm trời. Đó là con đường của máu và hoa, của gian lao và hạnh phúc.
Qua sách báo và hồi ký của ông Phạm Đình Dy, nguyên Trưởng ty Giao thông tỉnh Hà Giang, tôi biết được những khúc tráng ca từ đá, quá trình vượt qua cửa tử và con số của mồ hôi và máu như thế nào. Những thanh niên xung phong chiến đấu với đá núi, với nạn thổ phỉ treo người lên bia tập bắn trong 8 năm ròng; chuyện về mở đường vượt qua Mã Pì Lèng, công nhân đã phải treo mình 11 tháng trên vách đá, bò như mối dách để phá đá, mở đường. Trong lịch sử làm đường của nước ta, có lẽ, đó là con đường thi công hoàn toàn bằng sức người, gian khổ nhất; vượt qua cao nguyên cao nhất, chiếm số ngày công lao động nhiều nhất, thời gian lâu nhất.
Sự hy sinh của những thanh niên xung phong năm xưa đã thực sự đem lại hạnh phúc cho hơn 8 vạn đồng bào trên Cao nguyên đá. Ngày nay, ai đến Hà Giang đều ngất ngây trước vẻ đẹp của con đường huyền thoại. Xe ôtô bon bon trên đường, tự hào, vui sướng, xúc động... Qua Mã Pì Lèng, nhìn hẻm vực Nho Quế sâu hun hút với dòng sông chảy qua chỉ như sợi chỉ xanh trong vắt, thấy đất nước mình đẹp quá. Thiết nghĩ, có 2 việc mà chúng ta cần làm đối với con đường hạnh phúc, cũng là một trong nội dung chiến lược bảo tồn và phát triển Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Thứ nhất, cần đưa lịch sử mở đường hạnh phúc vào nội dung giáo dục trong các trường phổ thông trên địa bàn Hà Giang. Đây là việc làm ý nghĩa nhằm bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa phi vật thể trên cao nguyên đá. Thứ hai, bên cạnh nghĩa trang, cần có một tượng đài tưởng nhớ những TNXP mở đường hạnh phúc, nhằm giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau tự hào về những năm tháng không thể nào quên.
Năm 2010, cao nguyên đá Đồng Văn đã hòa vào mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu. Chúng ta đã và đang tích cực bảo vệ môi trường sinh thái trên cao nguyên đá, song con người không chỉ sống trong môi trường sinh thái mà còn sống trong môi trường văn hóa được con người đắp bồi từ ngàn xưa. Việc bảo tồn và phát triển cao nguyên đá Đồng Văn cần song hành với bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường văn hóa, lịch sử. Đó là vẻ đẹp hương sắc từ những cống hiến, hy sinh của những thế hệ đi trước, tạo nên những giá trị văn hóa vô giá. Đó là gốc rễ, cội nguồn giúp chúng ta bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái trên Cao nguyên đá Đồng Văn.