Thước đo của tiến bộ xã hội
Việc lựa chọn 20.3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc không phải ngẫu nhiên, bởi từ góc độ thiên văn học, đây là thời điểm xuân phân, mặt trời đi qua đường xích đạo, ngày và đêm dài bằng nhau, tượng trưng cho sự cân bằng - một yếu tố quan trọng của hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây không chỉ là cảm xúc mà còn là thước đo quan trọng của sự phát triển bền vững, sự tiến bộ xã hội và chất lượng cuộc sống.

Sau khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc công nhận Ngày Quốc tế Hạnh phúc năm 2012, Việt Nam đã nhanh chóng hưởng ứng, thể hiện cam kết nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Kể từ Quyết định số 2589/QĐ-TTg ngày 26.12.2013 phê duyệt “Đề án tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20.3 hằng năm”, việc nâng cao nhận thức về hạnh phúc được chú trọng. Nhân ngày này, mọi người được nhắc nhở và khuyến khích kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như tinh thần hiếu nghĩa, yêu thương, chia sẻ. Những giá trị này không chỉ giúp cá nhân tìm thấy ý nghĩa thực sự của cuộc sống mà còn giúp xây dựng gia đình hạnh phúc, cộng đồng đoàn kết, vững mạnh.
Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, hạnh phúc được xác định là mục tiêu phấn đấu của toàn xã hội, là khát vọng phát triển của đất nước, là chuẩn mực tối cao của gia đình Việt Nam. GS.TS. Hồ Sĩ Quý, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phân tích, ở bài học kinh nghiệm đúc rút từ sự nghiệp đổi mới, hạnh phúc được đề cập như là mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân. Trong các đột phá chiến lược, hạnh phúc được trình bày là khát vọng về sự phát triển của đất nước, cần được khơi dậy như một động lực tinh thần to lớn của toàn dân tộc. Việc nâng cao chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam được xác định là nội dung quan trọng của một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong nhiệm kỳ này. “Đây không chỉ là cam kết về chính trị mà còn phản ánh sâu sắc tư tưởng phát triển bền vững của Việt Nam”, GS.TS. Hồ Sĩ Quý nhận định.
Từ quan điểm của Đảng, hạnh phúc của Nhân dân trở thành một trong những chỉ dẫn quan trọng đối với quản trị quốc gia. Giá trị hạnh phúc không còn ở cảm nhận đơn thuần mà mang tính định lượng. Theo Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2024 do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc công bố dựa trên kết quả khảo sát tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023. Cuối tháng 10.2024, Việt Nam là quốc gia châu Á duy nhất được các nước G7 mời thực hiện báo cáo điển hình về thực hiện chính sách xã hội và phát huy vai trò người khuyết tật, người yếu thế trong xã hội hiện nay... Hay với chính sách giáo dục, Bộ Chính trị đã quyết định thực hiện miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước từ năm học 2025 - 2026, thể hiện bước đi chiến lược nhằm hiện thực hóa công bằng xã hội.
GS.TS. Hà Vĩnh Thọ, chuyên gia về phát triển mô hình Tổng Hạnh phúc Quốc gia (GNH) nhận định: “Việc đưa hạnh phúc vào mục tiêu phát triển quốc gia là một quan điểm tiến bộ và nhân văn. Sự chuyển hướng đó vượt ra ngoài chỉ số kinh tế thuần túy như GDP. Biến hạnh phúc thành thực tế trong phát triển quốc gia không chỉ khả thi mà còn cần thiết để giải quyết những thách thức phức tạp của thế kỷ XXI và theo đuổi phát triển bền vững”.
Động lực để hướng đến thịnh vượng
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới, theo các chuyên gia, nhiệm vụ của kỷ nguyên này là củng cố vững chắc và nâng cao giá trị của độc lập dân tộc, tiếp tục đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới. Điều này phù hợp với sự phát triển biện chứng của “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Tuy nhiên, ngày nay những thuận lợi về khoa học kỹ thuật một mặt giúp con người đạt đến giá trị vật chất to lớn, đồng thời là thách thức không nhỏ đối với đời sống tinh thần.
Soi chiếu dưới góc độ hệ chuẩn mực con người Việt Nam, PGS.TS. Trịnh Văn Tùng, Viện Lãnh đạo và Chính sách công, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, bản chất của hệ chuẩn mực con người Việt Nam là nơi gặp gỡ giữa ba tiểu hệ thống chuẩn mực: thể chất - tâm lý - xã hội. Sự cân bằng âm - dương tích hợp với sự cân bằng ba chiều cạnh này giúp con người đạt được sự ứng xử cân bằng trong ba lĩnh vực. Đó là ứng xử cân bằng giữa con người với con người với sự hòa khí, hòa thuận; ứng xử giữa con người Việt Nam với vật chất, tiền bạc, không thuần túy chạy theo đồng tiền; ứng xử giữa con người Việt Nam với thiên nhiên bằng cách thấu hiểu rằng do mỗi chúng ta đang sống từ thiên nhiên và được thiên nhiên che chở nên cần có thái độ và hành động đúng để bảo vệ thiên nhiên.
“Xây dựng hệ thống chuẩn mực con người Việt Nam không có mục tiêu nào khác ngoài việc tìm kiếm đời sống cân bằng, hài hòa và khỏe mạnh với ba chiều cạnh thể chất, tâm lý và xã hội. Bản chất hệ thống chuẩn mực của con người Việt Nam chính là sự gặp gỡ giữa ba tiểu hệ thống gồm: chuẩn mực pháp luật; chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực tôn giáo, tín ngưỡng. Sự gặp gỡ giữa ba tiểu hệ thống chuẩn mực ấy (tiêu chuẩn, tiêu chí và những quy định) mang lại hạnh phúc cho mỗi người. Đây chính là điều kiện của xã hội hạnh phúc”, PGS.TS. Trịnh Văn Tùng phân tích.
Khẩu hiệu "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" của Nhà nước Việt Nam ngay từ khi thành lập đã khẳng định hạnh phúc là một giá trị cốt lõi trong nền tảng quốc gia và là một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển. Chỉ ra như vậy, GS.TS. Hà Vĩnh Thọ tin rằng, giờ đây, khát vọng hạnh phúc trở thành động lực để chúng ta hướng đến sự thịnh vượng. Việc phát triển một xã hội hạnh phúc chính là tiếp nối truyền thống, biến thách thức thành động lực phát triển.
“Các thế hệ đi trước đã hy sinh anh dũng để giành được độc lập, tự do, thế hệ ngày nay có thể tập trung nỗ lực nâng cao hạnh phúc. Tầm nhìn về một Việt Nam hạnh phúc là xã hội mà mọi cá nhân cảm thấy được trân trọng, được kết nối và gắn kết với cộng đồng mình; một Việt Nam phát triển kinh tế không đánh đổi bằng sự bền vững môi trường hay bản sắc văn hóa. Trong tầm nhìn này, chúng ta sẽ giáo dục, nuôi dưỡng những công dân giàu lòng nhân ái, được chuẩn bị tốt để đối mặt với thách thức của thế kỷ. Các cộng đồng kết nối sâu đậm với bản sắc văn hóa truyền thống, đồng thời vẫn sẵn sàng cởi mở và hòa nhập với sự đa dạng, đổi mới”, GS.TS. Hà Vĩnh Thọ nhấn mạnh.