Hai thời điểm, một quá trình
Xuân Hè 1972, khi cả bộ máy chỉ đạo chiến tranh của Mỹ đang tập trung mọi binh lực hướng về Kon Tum thì đối phương lại bất ngờ nổ súng tiến công Đắk Tô - Tân Cảnh, một tiền đồn án ngữ ở phía Bắc thị xã Kon Tum. Ba năm sau cũng tại mảnh đất Tây Nguyên, vào Xuân 1975, khi mọi sự chuẩn bị của Quân đội Sài Gòn được ưu tiên tập trung tại Bắc Tây Nguyên để đối phó với cuộc tiến công lớn của Quân Giải phóng thì đòn tiến công chiến lược của đối phương lại nổ ra ở Buôn Ma Thuột! Đắk Tô - Tân Cảnh Xuân Hè 1972 và Buôn Ma Thuột Xuân 1975 - hai sự kiện ở hai thời điểm, nhưng đều là hệ quả một quá trình phát triển biện chứng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đòn điểm huyệt cục diện chiến trường Tây Nguyên
Một thực tế không thể phủ nhận là không có chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh, không có chiến dịch Bắc Tây Nguyên Xuân Hè 1972 thì khó có chiến thắng Tây Nguyên Xuân 1975 một cách trọn vẹn được mở màn bằng đòn điểm huyệt "xuất thần" Buôn Ma Thuột. Dẫu rằng chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh 1972 chỉ là "khúc dạo đầu" của chiến dịch Bắc Tây Nguyên và cuộc tiến công thị xã Kon Tum sau đó không thành công, nhưng không vì thế mà làm lu mờ ý nghĩa to lớn của đòn điểm huyệt Đắk Tô - Tân Cảnh đối với toàn bộ cục diện chiến trường Bắc Tây Nguyên nói riêng, Tây Nguyên nói chung trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Chiến dịch Bắc Tây Nguyên là một trong ba chiến dịch tiến công lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972, là hướng phối hợp quan trọng với hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên.
Xuân Hè 1972, địch chủ động chuẩn bị đối phó một cách ráo riết; chúng ném vào chiến trường Bắc Tây Nguyên thêm 2 liên đoàn Biệt động quân và tổ chức nhiều cuộc hành quân nhằm giải tỏa áp lực cho Kon Tum. Tại đây, chúng tập trung xây dựng 3 cụm phòng ngự chủ yếu, trong đó có cụm Đắk Tô - Tân Cảnh. Ngoài Sở chỉ huy của Sư đoàn 22 BB còn có các Trung đoàn 42, 47 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 41; 2 tiểu đoàn Pháo binh, 3 tiểu đoàn Bảo An, 14 xe thiết giáp... Bộ Tư lệnh Quân khu 2 Ngụy phán đoán đối phương sẽ tiến công trên trục đường từ Plei Ku đến Đắk Tô nên tập trung lực lượng, phương tiện, củng cố hệ thống công sự, hỏa lực, vật cản cho từng cứ điểm; đồng thời đẩy mạnh hoạt động trinh sát, thăm dò... nhằm phát hiện, đánh phá kế hoạch tiến công của ta.
Về phía ta, thực hiện chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, ngày 23.3.1975, Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cho Mặt trận B3, trong đó xác định rõ: "Với lực lượng bản thân cùng lực lượng binh khí kỹ thuật được tăng cường, tiêu diệt một bộ phận chủ lực quan trọng Quân đoàn 2 và lực lượng tổng dự bị của địch, giải phóng vùng Đắk Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum; khi có điều kiện phát triển xuống Plei Ku, mở rộng vùng căn cứ Tây Gia Lai, Đắk Lắk, hình thành một vùng căn cứ địa hoàn chỉnh, nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam bộ".
Thấu triệt tinh thần đó, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên quyết định chọn khu vực Bắc Tây Nguyên gồm các tỉnh Gia Lai, Kon Tum với một địa bàn hiểm yếu kéo dài trên 100km để mở chiến dịch tiến công. Thêm một lần nữa, Đắk Tô - Tân Cảnh lại là nơi diễn ra trận đánh then chốt của chiến dịch.
Phương án tiến công và kế hoạch đã được Bộ Tư lệnh chiến dịch thông qua, một câu hỏi đặt ra là muốn chắc thắng trận đầu ở Đắk Tô - Tân Cảnh, phải đánh lạc hướng được quân địch, thu hút lực lượng của chúng về hướng thị xã Kon Tum, chia cắt, cô lập chúng, không cho ứng cứu lẫn nhau mỗi khi bị tiến công.
Để hóa giải điều đó, ta tiến hành nghi binh chiến dịch, mở gấp tuyến đường quân sự Tây sông Pô Cô sang Võ Định. Nước cờ này ngay lập tức đã phát huy tác dụng. Phát hiện ta mở đường, địch càng đinh ninh đối phương sẽ triển khai tiến công thị xã Kon Tum như chúng từng phán đoán. Quân đội Sài Gòn đã đưa Lữ đoàn dù 2 từ miền Đông Nam bộ xuống Kon Tum; đồng thời cho đổ quân xuống các điểm cao phía Tây sông Pô Cô để lập tuyến ngăn chặn theo nguyên tắc "phòng ngự dự phòng". Chưa dừng lại, cuối tháng 3.1972, chúng tiếp tục đưa thêm Lữ đoàn Dù 3 ra Bắc Tây Nguyên.
Có thể thấy, chỉ bằng một đòn nghi binh khéo léo, ta đã đánh lạc hướng được quân địch, kìm giữ được lực lượng cơ động của chúng ở quanh thị xã Kon Tum để rồi bất ngờ giải quyết Đắk Tô - Tân Cảnh một cách nhanh gọn. Với đòn nghi binh này, ta cũng kéo được quân địch ra ngoài công sự để tiêu diệt chúng.
Thắng triệt để, giòn giã
Thực tế diễn biến chiến dịch Bắc Tây Nguyên trải qua hai đợt: Đợt 1 (từ 30.3 - 24.4), tiến công chọc thủng tuyến phòng thủ dọc phía Tây sông Pô Cô, Bắc Võ Định... sau đó tiến công giải phóng Đắk Tô - Tân Cảnh. Đợt 2 (từ 25.4 - 5.6), tập trung lực lượng tiến công quân địch co cụm trong thị xã Kon Tum. Sau 3 ngày mở cuộc tiến công (từ ngày 21 - 24.4), ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Đắk Tô - Tân Cảnh, cụm phòng ngự then chốt vững chắc nhất trong hệ thống phòng thủ phía Bắc Tây Nguyên của địch.
Ngay sau khi giải phóng Đắk Tô - Tân Cảnh, ta bước vào đợt 2 của chiến dịch. Tuy nhiên, cuộc tiến công vào thị xã Kon Tum đã không thành công. Việc chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị cho bộ đội còn nhiều thiếu sót. Mặt trận lại không có lực lượng dự bị mạnh; trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp còn yếu, nhất là trong điều kiện phải chuẩn bị gấp để đột phá vào trận địa của địch đã chuẩn bị sẵn...
Có lẽ chính vì cuộc tiến công thị xã Kon Tum không thành công nên lâu nay vẫn còn những ý kiến đánh giá khác nhau về chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh nói riêng, về chiến dịch Bắc Tây Nguyên năm 1972 nói chung. Dẫu vậy, chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh Xuân Hè 1972 vẫn là một chiến thắng to lớn, có giá trị và ý nghĩa vượt ra ngoài khuôn khổ một trận đánh then chốt của chiến dịch.

Chiến thắng đó góp phần giải phóng phần lớn Kon Tum với khoảng 4 vạn dân; tiêu diệt được một lực lượng lớn quân chủ lực của địch, làm thay đổi cục diện chiến trường Bắc Tây Nguyên, mà trước hết là mở cánh cửa phía Tây Bắc để ta đưa lực lượng vào tiến công thị xã Kon Tum, tiếp tục phát triển tiến công tiêu diệt và làm tan rã quân địch trong khu vực Đức Cơ, đẩy mạnh thế uy hiếp Plei Ku.
Với chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh, ta không chỉ giành quyền kiểm soát một địa bàn chiến lược rộng lớn, mà còn mở ra hành lang vận chuyển chiến lược nối thông mặt trận Trị - Thiên với Nam Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ.
Hiệp định Paris được ký kết, song tại Tây Nguyên quân địch vẫn còn tới 43 tiểu đoàn chủ lực, 5 phi đoàn cùng một lực lượng lớn địa phương quân với tổng quân số trên 60 vạn. Chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta, đặc biệt là ở Kon Tum. Chỉ trong một thời gian ngắn chúng đã liên tiếp mở 4 cuộc hành quân lấn chiếm quy mô cấp trung, sư đoàn, trong đó nhằm tập trung giải tỏa và chiếm lại các khu vực dọc tuyến đường 14 đoạn qua phía Nam Kon Tum. Tuy nhiên, bộ đội chủ lực cùng với quân và dân Bắc Tây Nguyên đã kịp thời, kiên quyết trừng trị quân địch lấn chiếm một cách thích đáng, đẩy chúng vào thế bị động đối phó; ta không những giữ vững thế trận, bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng Đông Bắc Kon Tum và Tây Plei Ku, mà còn phát triển được lực lượng; thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng và chiến tranh du kích trên địa bàn.
Có thể thấy, sau gần 3 năm kể từ chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh, quân và dân Bắc Tây Nguyên vừa giữ vững và mở rộng được vùng giải phóng; vừa tích cực tạo thế, xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương chiến lược trực tiếp tại chỗ ngày càng vững mạnh. Đó là một quá trình chuẩn bị vô cùng gian truân, nhưng rất quan trọng để bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Tây Nguyên lại là nơi mở màn chiến dịch đầu tiên. Khác với cuộc tiến công chiến lược năm 1972, lần này Nam Tây Nguyên được chọn làm hướng chính với đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột; Bắc Tây Nguyên là hướng nghi binh chiến lược. Buôn Ma Thuột tuy không phải đầu não quân sự, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng. Về quân sự, Buôn Ma Thuột yếu hơn Plei Ku nhưng lại rất hiểm. Tiến công vào đây ta có thể làm chủ một cách dễ dàng hơn là đánh vào Plei Ku và khi đã giải phóng được Buôn Ma Thuột thì không chỉ làm rung chuyển toàn bộ Tây Nguyên, mà còn tác động đến các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ. Thực tế trận quyết chiến then chốt Buôn Ma Thuột diễn ra hoàn toàn đúng với những phân tích, nhận định như vậy.
Đắk Tô - Tân Cảnh 1972 và Buôn Ma Thuột 1975 - hai trận then chốt quyết định nổ ra vào hai thời điểm khác nhau nhưng có nhiều điểm tương đồng. Đó đều là những đòn điểm trúng huyệt rất hay và rất hiểm; đều thể hiện được nguyên tắc quân sự cơ bản là "tránh chỗ thực, đánh chỗ hư", "đánh vào chỗ yếu nhưng hiểm".
Chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh 1972 và chiến thắng Buôn Ma Thuột 1975 là hệ quả của một quá trình tạo thế, tạo lực và phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Tây Nguyên. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ trận Đắk Tô - Tân Cảnh nói riêng, chiến dịch Bắc Tây Nguyên nói chung là cẩm nang vô cùng quý giá cho quân và dân Tây Nguyên trên chặng đường đi đến hồi kết cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Có thể nói, chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh Xuân Hè 1972 là một trong những tiền đề quan trọng cho chiến thắng Buôn Ma Thuột Xuân 1975, như lời của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên 20 năm sau chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh: "Cảm ơn thực tiễn đã cho ta bài học xương máu. Chính vì rút ra được bài học kinh nghiệm từ chiến dịch Bắc Tây Nguyên 1972 mà trong chiến dịch Nam Tây Nguyên Xuân 1975, ta đã thắng và thắng rất triệt để, giòn giã".