Hài hòa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa - nhìn từ hệ thống an sinh xã hội

Ts. Bùi Sỹ Lợi
Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội
08/03/2012 07:51

Hệ thống an sinh xã hội trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu xây dựng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việc tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về an sinh xã hội là giải pháp quan trọng để giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

An sinh xã hội đã từng là một trong những đòi hỏi thúc bách nhất đối với nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986...

Với ý nghĩa là thước đo trình độ phát triển của một quốc gia, an sinh xã hội luôn là mục tiêu phấn đấu của tất cả các quốc gia, dù ở bất kỳ thể chế chính trị nào. Ở các quốc gia phát triển, hệ thống an sinh xã hội được coi như chiếc nhiệt kế cực kỳ nhạy cảm với thân nhiệt của nền kinh tế. Từ phương diện tiếp cận quyền, chính sách và hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia chính là sự phúc đáp của nền quản trị đối với các quyền cơ bản, thiết yếu của công dân, mà ở đó, người dân đánh giá, cảm nhận về sự chăm lo của nhà nước thông qua chính chất lượng cuộc sống của mình. Nói cách khác, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội là biểu hiện cụ thể nhất, rõ ràng nhất cho việc thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những nỗ lực cải thiện hệ thống an sinh xã hội cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hội nhập vào khu vực và thế giới của một quốc gia. Bởi vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về an sinh xã hội – với tính chất là công cụ để bảo đảm công bằng, hài hòa xã hội, phát huy dân chủ và phát triển bền vững - luôn là một nội dung quan trọng căn bản của chính sách vĩ mô, đòi hỏi mối quan tâm thường xuyên của các nhà hoạch định chính sách.

Tại Việt Nam, sau một phần tư thế kỷ tiến hành sự nghiệp đổi mới đã đánh dấu quá trình vận động hết sức tích cực của nhận thức, tư duy lãnh đạo về tầm quan trọng của cải cách an sinh xã hội trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, gắn liền với nó là quá trình phát triển và từng bước hoàn thiện của hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực này. Nhìn lại một giai đoạn lịch sử, có thể thấy, vấn đề an sinh xã hội đã từng là một trong những đòi hỏi thúc bách nhất đối với nhu cầu đổi mới toàn diện đặt ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, và đến nay sau 25 năm, mặc dù Nhà nước ta đã đạt được mục tiêu của chặng đường đầu của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng vấn đề hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội để xây dựng một xã hội ngày càng phồn vinh, hạnh phúc khi kết thúc thời kỳ quá độ vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải tư duy trên tầm chiến lược về chính sách an sinh xã hội của Việt Nam, để trên cơ sở đó thúc đẩy quá trình thể chế hóa, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội.

Trong 25 năm của chặng đường đầu sự nghiệp đổi mới, việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về bảo đảm an sinh xã hội vào hệ thống pháp luật được thể hiện trên cả ba phương diện lập hiến, lập pháp và việc ban hành các văn bản dưới luật. Với quá trình phát triển của hệ thống pháp luật, mô hình cấu trúc hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam từng bước định hình rõ với ba bộ phận chính gồm bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và an sinh việc làm. Tuy nhiên, nếu xem xét ở phạm vi rộng hơn thì các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước ta còn bao gồm cả các nội dung khác có tác động tích cực đến mục tiêu an sinh xã hội như: chính sách ưu đãi người có công với cách mạng (ưu đãi xã hội), chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình y tế, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, giúp đỡ những người lầm lỡ... và gồm cả các loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác.

Hiến pháp năm 1992 - nền tảng pháp lý thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về an sinh xã hội

Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới - tuy chưa ghi nhận khái niệm an sinh xã hội, nhưng định hướng mục tiêu và các nội dung cốt lõi của chính sách bảo đảm an sinh xã hội đã được ghi nhận tại Điều 3, Điều 39, Điều 56, Điều 61 và Điều 67. Các quy định này đã thể hiện sự tôn trọng đối với các quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được bảo đảm về lao động, việc làm và thu nhập, bảo hiểm xã hội và trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện các chính sách chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm đời sống cho người lao động, chăm lo cho người có hoàn cảnh khó khăn và thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Về cơ bản, tinh thần hiến định của Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa đường lối về chính sách xã hội trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, làm rõ định hướng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất. Nền tảng hiến định này đã tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật về an sinh xã hội trong suốt 20 năm thi hành Hiến pháp 1992.

Về bảo hiểm xã hội: đây là bộ phận quan trọng nhất, là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam, bao gồm các chính sách về trợ cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế. Về mặt chính sách, cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, tầm quan trọng của bảo hiểm xã hội sớm được khẳng định là một chính sách lớn của Nhà nước, có vai trò quan trọng trong việc góp phần giữ vững và bảo đảm an toàn xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chế độ bảo hiểm xã hội trong cơ chế tập trung, bao cấp không còn phù hợp. Do đó, sau khi Bộ luật Lao động được ban hành (năm 1994), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12 về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội. Đây có thể coi là bước chuyển đầu tiên của hệ thống bảo hiểm xã hội theo cơ chế thị trường, trong đó 5 chế độ bảo hiểm cơ bản: chế độ trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất đã được vận hành đi vào nền nếp, thay thế cho các điều lệ tạm thời trước đó. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường lao động, cùng với tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống bảo hiểm xã hội đứng trước yêu cầu cải cách mạnh mẽ để phát triển tương thích với các vấn đề về tăng trưởng kinh tế, chính sách lao động - việc làm - tiền lương, chăm sóc sức khỏe, dân số. Trước nhu cầu thiết lập một hệ thống đồng bộ và đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội, dự án Luật Bảo hiểm xã hội đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của QH Khóa X, nhưng phải sau gần 10 năm soạn thảo, năm 2006 Luật Bảo hiểm xã hội mới được ban hành. Việc luật hóa toàn diện các quan hệ về bảo hiểm xã hội đã tạo nên bước cải cách cơ bản với nhiều thay đổi quan trọng của hệ thống an sinh xã hội: đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng tới mọi người lao động với hai hình thức tham gia bắt buộc và tự nguyện, phù hợp với tính đa dạng của thị trường lao động (nếu như năm 1996 mới chỉ có 2,8 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đến năm 2011 đã tăng lên 10,1 triệu người, gấp 3,6 lần so với 15 năm trước); phạm vi bảo hiểm được bổ sung thêm bảo hiểm thất nghiệp. Hệ thống bảo hiểm xã hội có cơ chế để thúc đẩy phát triển nhanh và khẳng định vai trò là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, cơ chế tài chính bảo hiểm phù hợp và chế độ quản lý, chi trả trợ cấp bảo hiểm xã hội được quản lý chặt chẽ, quỹ bảo hiểm xã hội từ chỗ chỉ tồn tại trên danh nghĩa trong giai đoạn trước 1995 thì đã dần dần kết dư và có tăng trưởng. Tính đến cuối năm 2011, tổng số kết dư quỹ Bảo hiểm thất nghiệp là: 14.638 tỷ đồng. Như vậy, mục đích của chính sách Bảo hiểm thất nghiệp ngoài khoản trợ cấp thất nghiệp nhằm giúp ổn định thu nhập cho người lao động bị mất việc làm, thì hoạt động hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm việc làm nhằm sớm đưa người lao động trở lại với thị trường lao động cũng chính là mục tiêu an sinh việc làm tạo cơ hội bảo đảm việc làm bền vững.

Luật Bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 1.7.2009 với mục tiêu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014 cho thấy sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần mức đóng bảo hiểm y tế đối với người nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số, hộ gia đình làm nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình trở xuống, đối tượng hưởng chính sách ưu đãi xã hội, trợ giúp xã hội.

Về bảo trợ xã hội: với truyền thống, đạo lý dân tộc thương người như thể thương thân, chính sách bảo trợ xã hội là một chính sách lớn thường xuyên của nhà nước, bao phủ một bộ phận lớn đối tượng cần trợ giúp với hai hình thức chủ yếu: trợ giúp thường xuyên và trợ giúp đột xuất. Do đó, các chính sách bảo trợ xã hội là một bộ phận quan trọng thuộc cấu trúc hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam và luôn được quan tâm điều chỉnh một cách tích cực theo tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hình thức trợ giúp thường xuyên áp dụng với các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn do không hoặc chưa có khả năng lao động để bảo đảm cuộc sống của bản thân, bao gồm: người già cô đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật nặng... với các hình thức trợ giúp bằng tiền, bằng hiện vật hoặc đưa vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội để các đối tượng này ổn định cuộc sống. Từ khi đổi mới đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh để cụ thể hóa chính sách trợ giúp với các đối tượng này như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Người cao tuổi và Luật Hoạt động chữ thập đỏ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, phạm vi được hưởng chế độ trợ giúp thường xuyên của Nhà nước trong những năm gần đây còn mở rộng thêm một số đối tượng khác: người mắc bệnh tâm thần không nơi nương tựa hoặc thuộc hộ nghèo, người nhiễm HIV/AIDS không còn khả năng lao động thuộc hộ gia đình nghèo, người đơn thân thuộc diện hộ nghèo. Chế độ trợ cấp thường xuyên cũng dần dần cải thiện để nâng cao mức sống của đối tượng bảo trợ. Hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội ngày càng được củng cố và đầu tư để thực hiện tốt chức năng xã hội. Bên cạnh hình thức cứu trợ thường xuyên, nhà nước còn có chính sách cứu trợ xã hội đột xuất áp dụng với các đối tượng gặp rủi ro, hoạn nạn, thiên tai hạn hán, hỏa hoạn... Đây là hình thức cứu trợ có tính chất tức thời giúp đỡ người dân vượt qua hoạn nạn, khó khăn. Đối tượng trợ giúp, mức và chế độ trợ giúp cụ thể thườâng được quy định trong Nghị định của Chính phủ và được quan tâm điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với từng thời kỳ.

Mặt khác, nếu xem xét ở phạm vi rộng thì mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam còn được tác động bởi các chương trình, chính sách khác, mà trong đó nổi bật nhất là chính sách ưu đãi người có công với cách mạng với độ bao phủ lên tới gần 9 triệu người thụ hưởng (tương đương 10% dân số). Bên cạnh đó, còn có chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình chăm sóc sức khỏe nhân dân, chương trình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn...

Qua 25 năm đổi mới, đến nay cấu trúc hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta đã từng bước định hình rõ và đến nay có sự tương thích, phù hợp với quan niệm về quyền an sinh xã hội trong Hiến chương Liên hợp quốc cũng như quan niệm về an sinh xã hội của Tổ chức Lao động quốc tế trong Công ước 102 về quy phạm tối thiểu. Đặc biệt trong những năm gần đây, hoạt động điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực an sinh xã hội đã có sự vận động rất tích cực. Các văn bản pháp luật về an sinh xã hội được ban hành tương đối đầy đủ, với phạm vi điều chỉnh bao quát cả lĩnh vực bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và các chính sách xã hội khác có liên quan. Nhiều văn bản pháp luật về an sinh xã hội thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện theo hướng phù hợp với kinh tế thị trường, từ đó tạo ra tính khả thi, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân. Nhìn chung, các văn bản pháp luật được ban hành có tính nhất quán trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về an sinh xã hội tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo đảm an sinh xã hội. Trong công tác hoạch định chính sách, khái niệm an sinh xã hội dần dần đã trở thành một khái niệm chính thức trong các văn bản chỉ đạo của Đảng cũng như các văn bản pháp luật của Nhà nước.

Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng pháp luật về an sinh xã hội cũng đang bộc lộ một số hạn chế. Mặc dù về cơ bản các cấu phần của hệ thống an sinh xã hội đều đã có văn bản pháp luật quy định song việc điều chỉnh pháp luật còn manh mún, chồng chéo, chưa đồng bộ, thiếu sự liên kết giữa các chính sách làm giảm hiệu quả vốn đầu tư. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do chưa giải đáp toàn diện cả về lý luận và thực tiễn của hệ thống an sinh xã hội. Những nỗ lực xây dựng pháp luật về an sinh xã hội đã tạo nên một hệ thống văn bản pháp luật dày đặc, với nhiều loại văn bản có giá trị quy phạm khác nhau, từ luật, pháp lệnh đến nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư... khiến cho việc áp dụng pháp luật, cũng như việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng người dân không nắm bắt được quyền lợi của mình để tích cực tham gia. Cùng với đó là mức độ bao phủ còn thấp, khả năng tiếp cận của nhiều nhóm đối tượng đối với một số chính sách an sinh xã hội còn hạn chế; một số cơ chế, chính sách xã hội mới bắt đầu thực hiện như bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp... nhưng việc thực hiện các quy định pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc. Bên cạnh đó, tính dự liệu và tính khả thi của một số quy định pháp luật còn thấp, dẫn đến tình trạng dễ bị lạc hậu hoặc phải sửa đổi, bổ sung nhanh chóng. Phương pháp điều chỉnh một số chế độ an sinh xã hội còn bất cập, mức hưởng chưa bảo đảm đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người ở một số chế độ (trợ cấp) nhưng lại hấp dẫn người lao động nghỉ hưu sớm trong khi trên thực tế hiện nay tuổi bắt đầu nghỉ hưu lại thấp hơn so với tuổi quy định; nhiều chế độ an sinh xã hội còn mang tính bao cấp, chưa hướng vào các giải pháp nâng cao khả năng tự chống đỡ của người dân và huy động có hiệu quả các nguồn lực xã hội. Các văn bản pháp luật hiện hành cũng chưa thiết lập được một hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác bảo đảm an sinh xã hội có hiệu quả; thiếu cơ chế giám sát đánh giá hiệu quả; các chế tài xử phạt chưa đủ mạnh để bảo đảm thực hiện nghiêm túc các chính sách về an sinh xã hội.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách an sinh xã hội sẽ góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa

 Cần khẳng định rằng, trên thế giới không có quốc gia nào tự cho rằng hệ thống an sinh xã hội của mình là đầy đủ và hoàn thiện. Hơn thế nữa, các bộ phận của an sinh xã hội, với ý nghĩa cao đẹp của nó, luôn được đặt trong quá trình vận động, cải cách, mở rộng ra các chế độ bảo vệ khác nhằm hướng tới sự bảo vệ toàn diện đầy đủ hơn cho các thành viên của mình. Ở nước ta, cùng với quá trình cải cách, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, hệ thống an sinh xã hội ngày càng chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống an sinh xã hội trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu xây dựng Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bổ sung, phát triển năm 2011 đã đặt ra mục tiêu hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Việc tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách về an sinh xã hội là giải pháp quan trọng để giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. 

Việc hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội cần nhất quán các quan điểm: xây dựng pháp luật an sinh xã hội cơ bản toàn diện, bền vững với cơ chế, chính sách và khung pháp lý phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhằm thực hiện công bằng xã hội và phát triển con người; xây dựng và thực hiện toàn diện các chính sách an sinh xã hội hướng đến bao phủ toàn bộ người dân theo các cấp độ chính sách khác nhau (tiếp cận phổ thông), lấy các giá trị con người và quyền cơ bản của con người làm cơ sở. Pháp luật về an sinh xã hội phải có trọng tâm, độ bao phủ rộng, trong đó đặc biệt chú ý đến các đối tượng yếu thế cần đặc biệt quan tâm như: trẻ em nghèo, người nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động di cư, bộ phận dân cư bị mất sinh kế do phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất, người bị tác động bởi các chính sách kinh tế, xã hội và bởi khủng hoảng, suy giảm kinh tế... Cần tăng cường hiệu quả của các hỗ trợ, chuyển dần sang phương thức hỗ trợ bằng tiền có điều kiện, nhằm nâng cao năng lực tự an sinh của người dân; bảo đảm nguyên tắc đoàn kết, chia sẻ, tương trợ xã hội; thực hiện công bằng và khuyến khích để thu hút sự tham gia vào hệ thống; phát triển nhanh các chính sách đáp ứng nhu cầu thực tiễn đồng thời bảo đảm tính bền vững, linh hoạt và đa dạng. Đồng thời, cần phát triển các chính sách an sinh xã hội với nội dung, cách tiếp cận và chuẩn mực mang tính hội nhập quốc tế, có khả năng liên kết, hợp tác khu vực và quốc tế thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người lao động trong bối cảnh di chuyển lao động quốc tế ngày càng mạnh mẽ; mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, đặc biệt tạo cơ chế thu hút sự tham gia của các khu vực kinh tế vào cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực an sinh xã hội.

Định hướng lập pháp hoàn thiện khung pháp luật về an sinh xã hội

Ở nước ta, mặc dù điều chỉnh pháp luật về an sinh xã hội đã có bề dày lịch sử và thực tiễn lập pháp khá sôi động, nhưng đến nay vẫn chưa hình thành quan niệm khung pháp luật về an sinh xã hội, trong khi thực tiễn cho thấy đây là một lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn, có tính độc lập, đòi hỏi cần có cơ chế điều chỉnh riêng biệt, thống nhất, phù hợp với đối tượng điều chỉnh của nó.

Theo nghĩa đơn giản nhất, khung pháp luật về an sinh xã hội có thể hiểu là hệ thống các văn bản pháp luật có vai trò chủ đạo, làm nền tảng cho cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội. Và như vậy, khung pháp luật về an sinh xã hội  không chỉ bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật thực định về an sinh xã hội do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ta ban hành, mà còn bao gồm cả các điều ước quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam ký kết. Với quan điểm và định hướng như trên, cần nghiên cứu xây dựng một đạo luật chung về an sinh xã hội nhằm tạo khuôn khổ pháp lý nền tảng cho các hoạt động điều chỉnh chính sách về an sinh xã hội, cũng như nhằm thiết lập một hệ thống an sinh xã hội vận hành hiệu quả, khắc phục được những tồn tại, hạn chế đã nêu trên đây. Theo đó, các chính sách quy định phải bảo đảm mức an sinh tối thiểu cho các thành viên trong xã hội, đồng thời các chính sách phải có sự liên thông và hướng tới xây dựng hệ thống tổ chức thực hiện, xác định đối tượng chi trả và giám sát thống nhất. Do đó, phải nhìn nhận pháp luật về an sinh xã hội như một lĩnh vực pháp luật độc lập, có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng là hết sức cần thiết, với ý nghĩa là nền tảng lý luận cho việc hoàn thiện khung pháp luật về lĩnh vực này.

Từ quan niệm đó, xin đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật về an sinh xã hội như sau:

Thứ nhất, trong thời gian trước mắt, tiếp tục xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung các luật chuyên ngành thuộc lĩnh vực an sinh xã hội như: Luật Việc làm, Luật Lương tối thiểu; sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế và các luật có liên quan khác... nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, tạo tính ổn định cho các bộ phận cấu thành của khung pháp luật về an sinh xã hội. Thứ hai, cần nghiên cứu, đánh giá hệ thống pháp luật để xây dựng luật (hoặc Bộ luật) về an sinh xã hội, với tính chất là pháp điển hóa toàn diện các nguyên tắc, chế độ an sinh xã hội phù hợp với cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội của nước ta (gồm cả ba nhóm: bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội, an sinh việc làm), tạo nền tảng pháp lý cho sự gắn kết, liên thông giữa các cấu phần trong hệ thống an sinh xã hội. Đây sẽ là khuôn khổ pháp lý hiệu quả, có giá trị pháp lý cao bảo đảm cho việc vận hành ổn định, bền vững hệ thống an sinh xã hội của nước ta. Việc triển khai hai định hướng này sẽ có ý nghĩa tích cực là tạo nên tính đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, hiệu lực của khung pháp luật về an sinh xã hội. Thứ ba, thúc đẩy việc ban hành các văn bản hướng dẫn để bảo đảm tính hiệu lực kịp thời, khả thi của các luật chuyên ngành về an sinh xã hội. Một yếu tố đặc thù của pháp luật về an sinh xã hội là các chế độ, chính sách cụ thể có tính biến động thường được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành (văn bản dưới luật). Do đó, việc bảo đảm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành kịp thời cũng là một yếu tố quan trọng của việc hoàn thiện khung pháp luật về an sinh xã hội cũng cần được quan tâm thích đáng.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Hài hòa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa - nhìn từ hệ thống an sinh xã hội
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO