Gọt chân cho vừa giày?
“Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số, suy cho cùng nằm ở con người, nhưng chúng ta đang lúng túng ở hai cách thức: Gọt chân cho vừa giày hay đóng giày cho vừa chân. Chính sách từ trên đưa xuống địa phương thực hiện, hay là các nhà khoa học xuống địa phương dựa vào thực tế để đưa ra phương hướng giải quyết vấn đề” - GS. TS. Bùi Quang Thanh, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam nhận định.
Khoảng trống từ lý thuyết tới ứng dụng bảo tồn
Ngày 31.5, tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong đồng bào dân tộc thiểu số”. Mấy chục năm qua đã có hàng trăm hội thảo, tọa đàm từ cấp quốc tế, quốc gia đến địa phương về chủ đề này. Từ những nghiên cứu, lý thuyết đưa ra đến ứng dụng về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc của quốc gia đa dân tộc nói chung tới văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng vẫn còn những bất cập. GS. TS. Bùi Quang Thanh cho rằng, hiện nay, việc bảo tồn văn hóa của các dân tộc thiểu số nên quan tâm đến tính ứng dụng: Chính sách của Đảng, Nhà nước đặt ra về vĩ mô đúng, nhưng từ chính sách đến vận dụng còn có khoảng cách lớn.
![]() Từ lý thuyết tới thực tiễn bảo tồn văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số còn có khoảng cách |
Nguồn: ITN |
“Trong bảo tồn, vai trò người “cầm cờ” văn hóa chỉ đạo ở các địa phương cực kỳ quan trọng. Nếu không am hiểu văn hóa, không từ ngành văn hóa, không lăn lộn với cộng đồng văn hóa, gắn bó với chủ thể văn hóa, thì không chọn được phương pháp bảo tồn phù hợp. Ở các tỉnh mà có nhà quản lý là nhà nghiên cứu, chuyên gia văn hóa thì việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa cộng đồng ở đó rất mạnh... Đây cũng là điều đáng suy nghĩ!”. GS. TS. Bùi Quang Thanh |
Qua quá trình điền dã, nghiên cứu di sản của các dân tộc thiểu số phía Bắc (vùng Việt Bắc) và tỉnh Quảng Nam những năm gần đây, GS. Bùi Quang Thanh nhận thấy thực trạng: Nhà nước đầu tư kinh phí phục dựng, khôi phục các di tích lịch sử - văn hóa tín ngưỡng ở khá nhiều làng, bản, hầu hết số kinh phí được giao cho các cấp chính quyền huyện hoặc xã để chi phí cho việc này. Tại Quảng Nam, chính quyền các cấp tổ chức phục dựng hơn 160 nhà Gươl cho đồng bào dân tộc Ca tu (Cơ tu), trong đó đa phần được làm bằng hình thức bêtông hóa (giả gỗ). Kết quả là, số nhà Gươl do chính quyền dựng ra hầu hết không thu hút người dân đến sinh hoạt, mặc dù các bản làng vẫn đang có nhu cầu cấp bách về địa điểm sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng.
Rất dễ hiểu bởi đây không phải không gian thiêng theo cách cảm, cách nghĩ của người dân. Với cộng đồng các dân tộc, để có không gian thiêng, không đơn thuần chỉ chú ý đến sự cung cấp vật liệu, kinh phí và thợ lành nghề, mà những vật liệu đó phải do chính người dân thực hiện các nghi lễ chọn lựa, chính họ đục đẽo, xây cất, được dựng theo nghi thức - lề lối, phong tục, tập quán bản địa. Có như vậy, công trình mới trở thành không gian thiêng.
“Theo nguyện vọng của người dân, hãy giao cho cộng đồng quyền tự chủ, quyền được phục dựng các di tích văn hóa - tâm linh của chính họ, dưới sự theo dõi, quản lý giám sát của chính quyền. Có như vậy, sản phẩm văn hóa đó mới nhận được sự đồng thuận của cộng đồng, được cộng đồng hưởng ứng” - GS. TS. Bùi Quang Thanh khẳng định.
Cộng đồng là nền tảng, chính sách là cú hích
Thường xuyên tiếp cận với bảo tồn từ quan điểm tới thực tiễn, Phó Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam Phạm Văn Dương cho rằng, đã có nhiều chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong cộng đồng dân tộc thiểu số, nhưng ở đó chưa đề cao vai trò quyết định của chủ thể - đồng bào. Hiện nay, Hà Giang có sáng tạo là thành lập các chi hội nghệ nhân dân gian, gồm các già làng, trưởng bản, thầy cúng. Họ góp ý cho chính quyền trong các vấn đề liên quan tới văn hóa, cũng như hỗ trợ chính quyền điều chỉnh sinh hoạt trong cộng đồng. Ví dụ, tục lệ của người Mông khi gia đình có người qua đời, họ không cho vào quan tài đem chôn mà vẫn bó chiếu, để trong nhà 5 - 7 ngày. Tục lệ này chính quyền không thể ra quy định bỏ được, nhưng các thầy cúng đã thuyết phục cộng đồng thay đổi!
Cũng theo PGS. TS. Phạm Văn Dương, để giữ bản sắc các dân tộc, phải có sự đồng bộ 2 yếu tố: Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc, và giáo dục. Ăn không đủ thì không thể giữ văn hóa, do đó kinh tế là vấn đề đầu tiên, đi cùng là giáo dục, giúp đồng bào nhận diện cái gì giá trị để bảo tồn... TS. Vũ Thị Thanh Minh, Viện Nghiên cứu Văn hóa dân tộc, có chung quan điểm: “Bảo tồn văn hóa và phát triển sinh kế là hai khái niệm tương đối độc lập. Tuy nhiên, hai nội dung này lại có mối quan hệ khăng khít, luôn tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình phát triển”. Sinh kế của mỗi dân tộc có thể ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển, bảo tồn các giá trị văn hóa nếu nó phát triển bền vững. Ngược lại, với nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, không có tính bền vững thì nền văn hóa bị đồng hóa, mai một, luôn là nguy cơ tiềm ẩn.
Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam Trần Hữu Sơn nhấn mạnh: Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số phải đi liền với bảo đảm cuộc sống người dân, theo hướng phát triển bền vững, phát huy sức mạnh cộng đồng. Chính sách là cú hích, cộng đồng là nền tảng. Ở đó, cái gốc là giáo dục, giáo dục và văn hóa phải đi liền với nhau.