Gỡ "nút thắt" thực tiễn, thúc đẩy tinh thần đổi mới từ cơ sở
Chiều 7/5, tại phiên thảo luận Tổ 3, các ĐBQH thuộc Đoàn Hà Tĩnh, Hải Dương và Ninh Thuận đồng thuận cao với việc sửa đổi toàn diện dự thảo Luật Cán bộ, công chức. Nhiều ý kiến tập trung làm rõ bất cập trong tuyển dụng, đánh giá, sử dụng, bố trí và bảo đảm quyền lợi cán bộ – công chức tại địa phương; đồng thời, đề xuất hoàn thiện cơ chế phát hiện, trọng dụng, phát triển người có năng lực trong khu vực công.
Cần tiêu chí khoa học, chính sách thực chất
Phát biểu tại phiên thảo luận Tổ 3, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ (Hà Tĩnh) cho rằng, việc sửa đổi Luật Cán bộ, công chức là cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện thể chế, tháo gỡ bất cập thực tiễn và tạo cơ sở pháp lý cho việc phát hiện, trọng dụng và phát huy người có năng lực trong khu vực công.

Từ thực tiễn giám sát tại cơ sở, đại biểu phản ánh vẫn còn tình trạng nhiều cán bộ, viên chức có trình độ, năng lực tốt nhưng lại bị phân loại, xếp hạng chưa hợp lý. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn nhân lực mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, cần sớm xây dựng hệ thống tiêu chí thống nhất, khách quan và có tính khả thi cao để xác định rõ vị trí, nhiệm vụ và năng lực của từng cán bộ, qua đó tạo điều kiện cho người có tài năng được phát triển và đóng góp đúng tầm.
Đại biểu đề nghị hoàn thiện hệ thống chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài trong khu vực nhà nước. Mặc dù hiện nay đã có những chủ trương lớn về việc thu hút người có phẩm chất, năng lực vào khu vực công, song trong thực tiễn triển khai, các tiêu chí nhận diện, tuyển chọn và đánh giá nhân tài vẫn còn chưa rõ ràng, thiếu minh bạch.
Qua giám sát việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại địa phương, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ cho biết: nhiều nơi vẫn áp dụng các quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm mang tính hình thức, chưa linh hoạt và chưa thực sự phát huy được hiệu quả – đặc biệt là trong các lĩnh vực then chốt như y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ. Cùng với đó, các chính sách hỗ trợ cho đội ngũ làm việc tại vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”, gây khó khăn trong việc giữ chân người giỏi.
Trên cơ sở đó, đại biểu kiến nghị giao Chính phủ nghiên cứu, ban hành một hệ thống tiêu chí khoa học để nhận diện, tuyển chọn và sử dụng hiệu quả người có tài trong bộ máy hành chính nhà nước, bảo đảm công bằng, minh bạch và thực sự tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức yên tâm cống hiến.
Cũng theo đại biểu, dự thảo Luật cần xác định rõ vai trò của việc “nuôi dưỡng và phát triển tài năng” trong khu vực công – không chỉ xem đây là một nội dung trong công tác đào tạo mà phải trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong toàn bộ quy trình: từ tuyển dụng, bố trí, sử dụng cho đến đánh giá cán bộ. Việc này đặc biệt quan trọng đối với những người có năng lực nổi trội, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng cao cho cơ quan nhà nước.
Đại biểu nhấn mạnh: việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong công tác cán bộ phải song hành với nâng cao trách nhiệm, năng lực thực thi của các cấp có thẩm quyền – nhất là trong khâu tuyển dụng, đánh giá và điều động, bố trí lại cán bộ. Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số quy định liên quan đến xử lý kỷ luật, tuyển dụng lại hoặc điều động, bố trí cán bộ chưa cụ thể, dễ tạo ra khoảng trống pháp lý và gây khó khăn cho thực tiễn triển khai tại địa phương.
Về quyền và nghĩa vụ của công chức, đại biểu đề nghị cần rà soát, làm rõ các khái niệm được nêu tại Điều 10 của dự thảo Luật, đặc biệt là: “quyền được đào tạo, bồi dưỡng”; “quyền được đánh giá công khai, minh bạch”; “quyền được điều động đúng năng lực” – tránh tình trạng hiểu sai hoặc vận dụng không thống nhất giữa các cấp, các ngành.
Thực tế cũng cho thấy, nhiều ứng viên có năng lực – nhất là sinh viên mới tốt nghiệp hoặc những người được đào tạo ở nước ngoài – vẫn chưa đáp ứng ngay các tiêu chí cứng về tuyển dụng. Nếu quy định quá chặt chẽ, cứng nhắc, sẽ vô tình loại bỏ nguồn nhân lực trẻ, có tiềm năng phát triển. Do đó, cần điều chỉnh quy định theo hướng linh hoạt hơn, vừa bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, vừa mở rộng cơ hội phát triển cho nhân tài.

Liên quan đến tỷ lệ công chức, đại biểu nhấn mạnh nhiều ngành, lĩnh vực đặc thù như giáo dục, thể thao, kỹ thuật… đang gặp khó khăn khi áp dụng các quy định về “tỷ lệ định biên” một cách cứng nhắc. Nhất là ở các địa bàn khó khăn, việc thiếu linh hoạt trong cơ cấu nhân lực ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực thi nhiệm vụ. Trên cơ sở đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ và Bộ Nội vụ cần rà soát các chương trình, nghị định và thông tư hướng dẫn để điều chỉnh phù hợp với đặc thù từng ngành, từng địa phương.
Làm rõ thẩm quyền, bảo đảm minh bạch trong thực thi
Góp ý về nội dung đánh giá cán bộ, công chức, đại biểu Đinh Thị Ngọc Dung nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải có các tiêu chí rõ ràng, gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ theo vị trí việc làm. Theo đại biểu, mỗi vị trí cần được lượng hóa bằng sản phẩm cụ thể, tiến độ và chất lượng công việc – đây là cơ sở quan trọng để đánh giá đúng năng lực, hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức.

“Hiện nay có nơi báo cáo hoàn thành 100% nhiệm vụ, nhưng người dân vẫn không hài lòng vì chất lượng giải quyết hồ sơ chưa đạt yêu cầu. Điều này cho thấy, cần bổ sung cơ chế đánh giá thực chất, tránh hình thức,” đại biểu phân tích. Việc giám sát chỉ dựa trên cảm tính hoặc số lượng hồ sơ đã xử lý không thể phản ánh đúng hiệu quả công việc.
Từ thực tiễn đó, đại biểu đề xuất bổ sung thêm các tiêu chí đánh giá về mức độ hoàn thành mục tiêu cá nhân, kế hoạch công tác; đồng thời, tăng cường kênh phản hồi chính thức từ người dân để đảm bảo tính khách quan. Bên cạnh đó, cần bổ sung hình thức đánh giá từ cấp dưới và đồng cấp – đặc biệt với đội ngũ lãnh đạo – để bảo đảm toàn diện hơn.

Theo đại biểu Đinh Thị Ngọc Dung, không ít trường hợp cán bộ lãnh đạo dám nghĩ, dám làm, có tinh thần đổi mới, vì lợi ích chung, nhưng lại bị đánh giá thấp do thiếu đồng thuận hoặc chưa được cấp trên thấu hiểu. Việc đa chiều hóa nguồn đánh giá sẽ góp phần phản ánh chính xác hơn phẩm chất, năng lực cán bộ.
Bày tỏ đồng thuận với quy định tại khoản 2 Điều 30 về việc đánh giá công chức lãnh đạo dựa trên kết quả hoạt động của đơn vị, đại biểu đề nghị làm rõ cách xác định chỉ tiêu và phân biệt rõ yếu tố chủ quan – khách quan, vì thực tế nhiều ngành chịu ảnh hưởng từ các yếu tố khách quan như biến động chính sách, hạn chế nguồn lực…
Đại biểu cũng đồng tình với quy định tạm điều chỉnh công tác với cán bộ, công chức bị tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung quy định cụ thể về thời hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc ra quyết định, để tránh tình trạng kéo dài, gây vướng mắc trong tổ chức, quản lý cán bộ.
Cùng với đó, cần cụ thể hóa các trường hợp ngoại lệ không bị xử lý kỷ luật như cán bộ đang mang thai, nghỉ thai sản hoặc điều trị bệnh nặng có xác nhận của cơ sở y tế – nhằm bảo đảm nhân văn, minh bạch trong thi hành công vụ.

Đánh giá cao việc dự thảo Luật mở rộng các hình thức tuyển dụng công chức, bao gồm thi tuyển, xét tuyển và tiếp nhận từ các nhóm đối tượng như viên chức, cán bộ cấp xã, người hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong lực lượng vũ trang, người làm việc trong tổ chức cơ yếu, doanh nghiệp nhà nước…, đại biểu Chamaléa Thị Thủy (Ninh Thuận) cho rằng đây là điều chỉnh cần thiết, tạo sự linh hoạt và đa dạng hóa nguồn nhân lực cho bộ máy hành chính nhà nước.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính khách quan, minh bạch và công bằng trong thực hiện, đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo cần quy định cụ thể hơn về điều kiện, quy trình và tiêu chuẩn tiếp nhận, tránh để xảy ra tùy tiện hoặc thiếu công bằng trong tổ chức thực hiện.
Góp ý về Điều 44 của dự thảo, liên quan đến việc kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật, đại biểu đề nghị cân nhắc kỹ tính khả thi khi nâng từ 2 năm lên 5 năm đối với vi phạm ít nghiêm trọng, và từ 5 năm lên 10 năm với các vi phạm khác. Trong bối cảnh công tác lưu trữ hồ sơ, minh chứng và phối hợp liên ngành còn nhiều bất cập, nếu không kiểm soát tốt, quy định này có thể gây áp lực tâm lý hoặc ảnh hưởng đến công bằng trong xử lý.
Để khắc phục, đại biểu đề xuất bổ sung cơ chế kiểm tra, giám sát sớm, đồng thời xác định rõ trách nhiệm trong việc xử lý hồ sơ, đảm bảo kỷ luật được thực thi nghiêm minh nhưng không lạm quyền.
Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo, đại biểu kiến nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát và cập nhật quy định trong dự thảo Luật sao cho phù hợp với các luật liên quan khác. Đồng thời, cần điều chỉnh, thể chế hóa đầy đủ các quyền lợi chính đáng của cán bộ, công chức – đặc biệt trong bối cảnh tinh gọn bộ máy và sắp xếp tổ chức theo yêu cầu Trung ương.

Tán thành quan điểm trên, phát biểu về khoản 3 Điều 10 của dự thảo Luật – “Được bố trí, thuê nhà ở công vụ theo quy định của pháp luật và của cấp có thẩm quyền” – đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Ninh Thuận) cho rằng đây là quy định phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh cả nước đang triển khai sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Tuy nhiên, đại biểu lưu ý rằng quỹ nhà ở công vụ tại nhiều địa phương hiện rất hạn chế, trong khi số lượng cán bộ, công chức phải điều chuyển về trung tâm hành chính mới sau sáp nhập là rất lớn. Điều này gây khó khăn đáng kể cho việc ổn định chỗ ở, ảnh hưởng đến tâm lý và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, công chức.
Từ đó, đại biểu đề xuất bổ sung thêm quyền “được mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội” vào quy định về quyền của công chức. Đây là giải pháp khả thi, vừa giúp cán bộ yên tâm công tác lâu dài, vừa giảm gánh nặng về nhà ở tại các địa phương đang thiếu hạ tầng.
Đồng thời, để bảo đảm tính thống nhất và khả thi trong thực thi, đại biểu kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều trong Luật Nhà ở – đặc biệt là các điều 45, 76 và 78 – nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho việc ưu tiên bố trí, hỗ trợ nhà ở xã hội cho cán bộ, công chức chuyển công tác theo yêu cầu tổ chức, sắp xếp bộ máy.

Góp ý vào khoản 4 của dự thảo Luật Cán bộ, công chức về quy trình ban hành quyết định tuyển dụng và bố trí công chức, đại biểu Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) đề xuất bổ sung cụm từ “hoặc thực hiện theo phân cấp quản lý” nhằm bảo đảm sự đồng bộ và phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy hiện nay.
Theo đại biểu, quy định hiện hành được nêu như sau: “Căn cứ vào kết quả tuyển dụng, cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức ban hành quyết định tuyển dụng, bố trí theo vị trí việc làm tuyển dụng và bổ nhiệm, xếp lương ở ngạch công chức tương ứng đối với người trúng tuyển”. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn phân cấp trong công tác cán bộ, cần sửa đổi thành: “…đối với người trúng tuyển hoặc thực hiện theo phân cấp quản lý”.
Đại biểu lý giải, đề xuất bổ sung này nhằm bảo đảm tính thống nhất với khoản 3 Điều 6 của dự thảo Luật, theo đó: “Cơ quan sử dụng cán bộ, công chức là cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao thẩm quyền sử dụng, phân công, bố trí, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức và các thẩm quyền khác theo phân cấp”.
Đồng thời, nội dung đề xuất cũng phù hợp với chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường tính chủ động và linh hoạt trong quản lý đội ngũ cán bộ, công chức – đặc biệt tại các địa phương, đơn vị hành chính cấp cơ sở.

Bên cạnh đó, đại biểu cũng phân tích bất cập trong quy định về đánh giá công chức tại Điều 29 của dự thảo Luật. Cụ thể, khoản 2 quy định: “Việc đánh giá công chức do cơ quan quản lý công chức hoặc cơ quan sử dụng công chức thực hiện theo phân cấp”; trong khi khoản 4 lại quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan quản lý và sử dụng công chức.
Theo đại biểu, cách quy định như hiện nay dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất, nhất là trong bối cảnh tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hiện nay có sự phân biệt rõ ràng giữa UBND (cơ quan) và Chủ tịch UBND (người đứng đầu), từ đó phát sinh lúng túng trong xác định thẩm quyền.
Vì vậy, đại biểu Trần Đình Gia đề nghị làm rõ: thẩm quyền đánh giá công chức là thuộc về cơ quan hay người đứng đầu cơ quan, tránh chồng chéo trong thực hiện, bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng và phù hợp với thực tiễn tổ chức, vận hành của bộ máy chính quyền các cấp hiện nay.