Giao lưu trực tuyến “Thí điểm cơ chế, chính sách đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ”

ĐBND
Ảnh: Duy Thông
22/11/2019 00:02

Nhằm nêu bật vai trò và những đóng góp của đổi mới sáng tạo đối với phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện Việt Nam đang ở ngã rẽ trên quá trình phát triển, thúc đẩy tăng trưởng trong điều kiện hạn chế về lao động và vốn, Báo Điện tử Đại biểu Nhân dân phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông Khoa học và Công nghệ tổ chức Giao lưu trực tuyến với chủ đề “Thí điểm cơ chế, chính sách đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ”.

Đào Thảo Anh (27 tuổi), Nha Trang: Thưa GS. TS Vũ Thu Hà, bà là một trong số ít nhà khoa học nữ của Việt Nam thành công trong nghiên cứu, thiết kế công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể và vật liệu nano trong lĩnh vực lọc dầu sinh học, sản xuất năng lượng mới vì sự phát triển bền vững, bà đánh giá gì về “bức tranh” đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN tại Việt Nam, đặc biệt là trong các doanh nghiệp tư nhân?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Đồng tình với những nhận định trong tóm tắt báo cáo “Đánh giá khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam” của Ngân hàng thế giới, cá nhân tôi cũng nhận thấy:

Thứ nhất, năng lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp nói chung hiện còn yếu và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn non trẻ, manh mún. Công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) vẫn chỉ là hoạt động mang tính thêm thắt trong các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước.

GS.TS Vũ Thị Thu Hà – Giám đốc Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc, hóa dầu, Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam
GS.TS Vũ Thị Thu Hà – Giám đốc Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc, hóa dầu, Viện Hóa học công nghiệp Việt Nam

Thứ hai, quá trình gắn kết tổ chức KHCN/nhà khoa học với doanh nghiệp chưa đồng bộ vì mục tiêu của hai đối tượng này chưa hợp nhất. Nếu như các nhà khoa học có mục tiêu là hoàn thiện ý tưởng, phát minh sáng chế, thì mục tiêu của doanh nghiệp là tổ chức sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm, và nếu họ là nhà đầu tư thì cuối cùng phải đạt được mục tiêu bán được hàng và có lợi nhuận. Trong khi đối với phần lớn dự án, đề tài do các cán bộ nghiên cứu của các viện nghiên cứu, trường đại học đề xuất, việc đánh giá tính khả thi của kế hoạch kinh doanh lại phụ thuộc vào nghiên cứu thị trường và khả năng tổ chức sản xuất của doanh nghiệp. Chẳng hạn, doanh nghiệp chỉ “bỏ chi phí ra mua” thành quả KHCN khi nó đã được hoàn thiện và sẵn sàng thương mại hóa, trong khi tổ chức KHCN/nhà khoa học lại cần có kinh phí để hoàn thiện công nghệ, thiết bị, sản phẩm. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ mối liên kết “doanh nghiệp - tổ chức KHCN/nhà khoa học” trong quá trình “hoàn thiện công nghệ, sản phẩm” như thế, nhưng thời gian để một đề xuất được phê duyệt thường tốn khoảng 12 - 24 tháng, có thể đã tạo ra sự “lỡ nhịp” đối với nhu cầu của doanh nghiệp, trong bối cảnh thị trường và xu hướng phát triển của thế giới luôn luôn sôi động từng ngày.

Thứ ba, mức độ cạnh tranh ngày càng tăng trên thế giới đòi hỏi phải sớm đầu tư vào việc phát triển năng lực công nghệ tiên tiến, kể cả hoạt động R&D. Việc nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo trở nên cấp thiết để doanh nghiệp có thể nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ tư, để đáp ứng đòi hỏi sắp tới, cần đẩy mạnh đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tăng cường, hợp lý hoá và điều chỉnh hệ thống đổi mới sáng tạo theo hướng tập trung hơn vào các doanh nghiệp. Chính vì vậy, sự kết nối và lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo có được từ Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ - FIRST”, thể hiện qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, hoàn thiện và tăng cường năng lực của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và tạo động lực cho đổi mới sáng tạo, là rất có ý nghĩa.

Lê Hải Hưng (38 tuổi), Hà Nội: Thưa ông Hồ Viết Cầm, là thành viên đứng đầu Nhóm hợp tác Hương Trà, Giám đốc một doanh nghiệp chuyên phân phối sản phẩm dành cho ngành xây dựng, ông có thể đưa ra những đánh giá của mình về sự tác động của việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu, tiến bộ KHCN đối với ngành xây dựng nói chung và kinh tế - xã hội tại địa phương ông nói riêng?

Ông Hồ Viết Cầm – Giám đốc Công ty Cổ phần Hương Trà
Ông Hồ Viết Cầm – Giám đốc Công ty Cổ phần Hương Trà

Ông Hồ Viết Cầm: Theo tôi, trong những năm vừa qua, ngành vật liệu xây dựng của Việt Nam phát triển ứng dụng vào khoa học kỹ thuật chỉ ở dạng trung bình hoặc thấp so với khu vực, các sản phẩm phục vụ cho ngành xây dựng chủ yếu phụ thuộc vào các nước trong khu vực và trên thế giới.

Nghệ An là một tỉnh giàu tài nguyên nhưng chưa được đầu tư đúng mức, dẫn đến thất thoát một phần nào tài nguyên của địa phương, giá trị gia tăng của xã hội và người lao động thấp. Điều này đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp đưa ứng dụng KHCN vào khai thác sản xuất, chế biến ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn về chất lượng; tạo được giá trị gia tăng, góp phần vào nguồn thu cho đất nước, cho quê hương.

Nguyễn Yến Nhi (33 tuổi), Hòa Bình: Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang bùng nổ mạnh mẽ trên toàn thế giới, kéo theo đó là sự tăng trưởng kinh tế dựa vào vốn đầu tư, lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam đã mất dần lợi thế. Ông có nhận định như thế nào về việc cần thiết phải biến tri thức trở thành hàng hóa, tạo ra lợi nhuận và giá trị gia tăng?

Ông Lương Văn Thắng : Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh đã nhận định, công nghiệp 4.0 là xu thế tất yếu và diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nhiều quốc gia đã lựa chọn được cách tiếp cận riêng riêng mình. Ví dụ như Đức là Industrie 4.0, Mỹ là Liên minh internet công nghiệp, Nhật Bản là xã hội 5.0. Nhưng "dù từ cách tiếp cận nào, các quốc gia đều phải dựa vào nền tảng là sự phát triển của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo".

Ông Lương Văn Thắng – Giám đốc Ban Quản lý Dự án FIRST, Bộ Khoa học và Công nghệ
Ông Lương Văn Thắng – Giám đốc Ban Quản lý Dự án FIRST, Bộ Khoa học và Công nghệ

Trong mối liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo thì yếu tố "tri thức" (cụ thể là tạo ra tri thức mới) có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, một số yếu tố không kém cạnh với tạo ra tri thức mới đó là sử dụng tri thức đó và biến nó thành những thứ có giá trị lớn lao hơn cho cuộc sống. Tri thức được chuyển hoá thành công nghệ, thiết kế kiểu dáng công nghiệp, quy trình sản xuất... Tri thức cũng có thể chuyển hoá thành các ý tưởng sáng tạo cho một sản phẩm mới, quy trình kinh doanh mới... Quá trình chuyển hoá đó sẽ là tăng giá trị cho hàng hoá trên thị trường. Tôi xem đó như là hai cánh của một con chim. Với một đôi cánh khoẻ mạnh con chim sẽ bay được cao và xa hơn.

Đặng Tuấn Anh (20 tuổi), Hà Nội: Yếu tố đổi mới sáng tạo của tiểu dự án do Viện thực hiện là gì và những giá trị tiểu dự án đem lại cho Viện là gì, thưa ông?

TS. Bùi Hùng Thắng: Tiểu dự án 16/FIRST/1a/IMS do Viện Khoa học vật liệu thực hiện đã tiếp cận đến yếu tố đổi mới sáng tạo thông qua việc tập trung nghiên cứu những vấn đề mới về ứng dụng vật liệu CNTs – Graphene trong tản nhiệt, đây cũng vốn là lĩnh vực hiện đang được thế giới quan tâm nghiên cứu. Thay vì tiếp nhận những công nghệ có sẵn từ các chuyên gia quốc tế, chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận thực hiện nghiên cứu những vấn đề mới mà thế giới cũng đang nghiên cứu với sự hỗ trợ của các chuyên gia giỏi nước ngoài, cách tiếp cận này đã giúp chúng tôi thuận lợi hơn trong việc tạo ra những kết quả mới, sản phẩm mới so với những kết quả và giải pháp đã biết trên thế giới, và đây cũng là tiêu chí quan trọng để chúng tôi được cấp bằng độc quyền sáng chế. Với cách tiếp cận này, kết quả chúng tôi thu được không chỉ là bài báo quốc tế ISI mà còn có những kết quả về bằng độc quyền sáng chế và hợp tác chuyển giao kết quả nghiên cứu cho phía doanh nghiệp. 

TS. Bùi Hùng Thắng – Giám đốc Trung tâm Ứng dụng và Triển khai công nghệ, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
TS. Bùi Hùng Thắng – Giám đốc Trung tâm Ứng dụng và Triển khai công nghệ, Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Tiểu dự án FIRST đã đem lại cho Viện Khoa học vật liệu nhiều lợi ích trong hoạt động đổi mới sáng tạo. Thứ nhất là Viện có được sự hỗ trợ của các chuyên gia giỏi nước ngoài về nhiều mặt, các cán bộ của Viện được truyền đạt những kinh nghiệm quý báu về cả chuyên môn, kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đến các kinh nghiệm về công bố kết quả nghiên cứu và triển khai ứng dụng. Thứ hai, với sự hỗ trợ của các chuyên gia giỏi nước ngoài, Viện đã đạt được nhiều kết quả mới về khoa học và công nghệ mà cụ thể là công bố khoa học quốc tế ISI và bằng độc quyền sáng chế. Thứ ba qua tiểu dự án này, Viện có được cơ hội để hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp nhằm thử nghiệm và ứng dụng những kết quả nghiên cứu đã đạt được vào một số sản phẩm của doanh nghiệp.

Bùi Xuân Trường (45 tuổi), Hà Nam: Dự án Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN (FIRST) là dự án đầu tiên do Ngân hàng Thế giới tài trợ cho hoạt động KHCN ở Việt Nam. Việc triển khai dự án này đã tiếp thêm động lực cho các doanh nghiệp, viện nghiên cứu làm chủ nhiều công nghệ mới, có tính ứng dụng cao. Thưa bà, mục tiêu mong muốn của Ngân hàng Thế giới khi hỗ trợ Việt Nam triển khai Dự án này là gì?

Bà Đào Thị Thùy Dung : Dự án FIRST là dự án hợp tác đầu tiên giữa Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực KHCN thực hiện thông qua Bộ KHCN, vì vậy dự án đã lựa chọn tên viết tắt rất có nghĩa là FIRST, nghĩa là Đầu tiên. Mục tiêu của dự án FIRST: là nhằm hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (ĐMST) ở Việt Nam thông qua việc thiết kế và thí điểm các chính sách KHCN và ĐMST, tăng cường hiệu quả của các tổ chức nghiên cứu công lập, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ ĐMST.

Bà Đào Thị Thùy Dung – Chuyên gia Ngân hàng Thế giới, Đồng Chủ nhiệm Dự án FIRST
Bà Đào Thị Thùy Dung – Chuyên gia Ngân hàng Thế giới, Đồng Chủ nhiệm Dự án FIRST

Dự án muốn thúc đẩy yếu tố ĐMST trong KHCN bằng cách thí điểm các mô hình đầu tư, tuy mới ở Việt Nam nhưng đã được áp dụng tại các quốc gia tiên tiến khác trên thế giới. Bên cạnh việc hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu công lập nhằm hỗ trợ đẩy nhanh quá trình tự chủ trong nghiên cứu và điều hành quản lý của các đơn vị công lập, dự án chú trọng thử nghiệm các mô hình chính sách mới như mô hình hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trường với các doanh nghiệp tư nhân, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua matching grants ( khoản hỗ trợ có đối ứng) nhằm mang các nghiên cứu đến gần hơn với nhu cầu thiết yếu trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghệ sinh học, y tế, giáo dục… Dự án còn hỗ trợ tài chính cho các nhóm nghiên cứu trực thuộc các trường đại học/ viện nghiên cứu nhằm thu hút hợp tác chuyển giao công nghệ với các trường đối tác và các chuyên gia giỏi ở nước ngoài, trong đó bao gồm rất nhiều chuyên gia giỏi là người Việt Nam ở nước ngoài, hình thành các mối quan hệ hợp tác, thu hút nhân tài và tăng cường năng lực nghiên cứu trong nước. Về mặt chính sách, dự án còn hỗ trợ phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu KHCN và ĐMST cũng như phát triển khung giám sát đánh giá nhằm năng cao hiệu quả quản lý của các đơn vị Nghiên cứu công lập trong nước dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia tiên tiến trên thế giới.

Nguyễn Ngọc Tú (34 tuổi), Hà Nội: Bà đánh giá thế nào về tầm quan trọng của những hoạt động nghiên cứu và triển khai về vật liệu xúc tác dị thể và vật liệu nano trong lĩnh vực lọc dầu sinh học, sản xuất năng lượng mới vì sự phát triển bền vững, hiện nay?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà : Phần lớn các chất mang năng lượng và các sản phẩm vật chất trên thế giới đều có nguồn gốc từ nguồn nguyên liệu hóa thạch hay cụ thể hơn là từ quá trình lọc dầu nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, do trữ lượng dầu mỏ có hạn cộng với tình trạng ô nhiễm môi trường trong các hoạt động sử dụng nhiên liệu truyền thống, tính khả thi của các hoạt động khai thác và chế biến dầu mỏ ít nhiều giảm đi trong tương lai gần. Vì vậy, những giải pháp thay thế để có thể giảm thiểu biến đổi khí hậu và giảm tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch nên được khuyến khích. Việc thay thế dầu mỏ bằng sinh khối làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất nhiên liệu và hóa chất là một lựa chọn thú vị và là động lực cho sự phát triển các tổ hợp lọc dầu sinh học.

Trong quá trình lọc dầu sinh học, gần như tất cả các loại nguyên liệu sinh khối đều có thể được chuyển hóa thành các dạng nhiên liệu sinh học và hóa chất sinh học khác nhau nhờ các quá trình công nghệ được áp dụng. Thông qua sự tích hợp của hóa học xanh, mà quá trình xúc tác dị thể đóng vai trò then chốt, vào các quá trình lọc dầu sinh học, và việc sử dụng các công nghệ ít tác động đến môi trường, các dây chuyền sản xuất bền vững nhiên liệu sinh học và các hóa chất có giá trị cao từ sinh khối trong tương lai chắc chắn sẽ được thiết lập.

Trong suốt 50 năm qua, xúc tác dị thể đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp lọc dầu, như nó được biết đến ngày nay. Gần như toàn bộ các công nghệ trong ngành công nghiệp lọc, hóa dầu đều liên quan đến việc sử dụng chất xúc tác rắn và xu hướng này dự kiến sẽ vẫn luôn được áp dụng đối với các quá trình lọc dầu sinh học Tuy nhiên, các phương pháp xúc tác dị thể truyền thống sử dụng để chế biến dầu mỏ thành nhiên liệu và hóa chất không còn phù hợp để xử lý sinh khối, do bản chất hóa học khác nhau giữa hai nguồn nguyên liệu. Những thách thức công nghệ mới này sẽ có ảnh hưởng quyết định đến việc thiết kế chất xúc tác.

Ví dụ, thay vì tính ổn định hoạt tính ở điều kiện nhiệt độ cao, các chất xúc tác dị thể ứng dụng trong lọc dầu sinh học cần phải ổn định hoạt tính trong điều kiện pha lỏng và có khả năng chống chịu sự rửa trôi. Thêm nữa, các dẫn xuất từ sinh khối cần được xử lý nhiều bước để được chuyển hóa thành nhiên liệu và hóa chất, bởi vì nguyên liệu có thành phần hoàn toàn khác với sản phẩm cuối cùng. Để cải thiện tính kinh tế của quá trình lọc dầu sinh học, việc phát triển các vật liệu đa chức năng (có khả năng xúc tác cho một số phản ứng trong cùng một lớp xúc tác) là rất quan trọng để giảm mức độ phức tạp của quy trình, và trong một số trường hợp, cho phép thiết kế quy trình "một giai đoạn".

Cũng theo cách tiếp cận tương tự, liên quan đến lĩnh vực sản xuất năng lượng mới, pin nhiên liệu, có mức phát thải ô nhiễm gần như "bằng 0", thân thiện với môi trường đang được quan tâm nghiên cứu trên thế giới. Động cơ thúc đẩy việc ứng dụng pin nhiên liệu cho mục đích dân sự xuất phát từ nhận thức trữ lượng dầu mỏ trên trái đất là có hạn nhưng nhu cầu sử dụng các phương tiện giao thông thời kỳ hậu dầu mỏ vẫn cấp thiết và mang lại nhiều lợi nhuận. Cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ nano, nhiều thế hệ xúc tác dị thể trên cơ sở vật liệu nano carbon, đặc biệt là graphen đã được phát triển nhằm hướng tới các ứng dụng trong pin nhiên liệu.

Từ hai cách tiếp cận trên, có thể thấy, những hoạt động nghiên cứu và triển khai về vật liệu xúc tác dị thể và vật liệu nano trong lĩnh vực lọc dầu sinh học, sản xuất năng lượng mới, hiện nay là rất cấp thiết và đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển bền vững. Xu hướng phát triển này thuộc vào ít nhất 4 trong số 15 trụ cột của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Nguyễn Hải Sơn (45 tuổi), Vĩnh Phúc: Thưa Ông Lương Văn Thắng, qua 5 năm triển khai, đến nay, Dự án FIRST do WB tài trợ đã đạt được những kết quả và sức lan tỏa như thế nào, thưa ông?

Ông Lương Văn Thắng: WB là một trong những nhà tài trợ quốc tế lớn luôn đồng hành cùng với sự phát triển của Việt Nam. Tính từ năm 1994 đến nay, WB đã cung cấp hơn 24 tỷ USD dưới các hình thức tài trợ, tín dụng và cho vay ưu đãi với hơn 160 dự án, ưu tiên vào xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, giao thông, chống biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo, tăng trưởng bền vững…

Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ” có tên viết tắt bằng các chữ cái đầu của Tiếng Anh là FIRST cũng là một sự trùng hợp vì đây là Dự án đầu tiên WB tập trung hỗ trợ Việt Nam thí điểm thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, KHCN.

Trên thế giới, WB đã triển khai nhiều dự án tập trung vào nâng cao năng lực KHCN và đổi mới sáng tạo cho nhiều quốc gia tại những thời điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa của họ. Các dự án này chú trọng vào hoàn thiện khung thể chế chính sách, thúc đẩy sự liên kết giữa khoa học và phát triển công nghệ công nghiệp, hỗ trợ đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp và thông qua đó nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp, kích thích sự đầu tư cho Nghiên cứu và Triển khai (R&D) của khu vực tư nhân, kích thích sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp KHCN. Các dự án điển hình thành công của WB đã được thực hiện ở các nước như Ấn Độ (200 triệu USD), Hàn Quốc (264 triệu USD), Trung Quốc (314 triệu USD, bên cạnh gói 50 triệu USD cho cải cách giáo dục đại học), Thái Lan (143 triệu USD, bên cạnh gói 194 triệu USD cho cho giáo dục trung học), Indonesia (gần 200 triệu USD), Malaysia (107 triệu USD), Philippines (85 triệu USD), Mexico (300 triệu USD). 

Điểm cần nhấn mạnh là Việt Nam và WB đã chọn đúng thời điểm để bắt tay thực hiện Dự án FIRST. Đây là thời điểm Việt Nam xác định một cách mạnh mẽ KHCN và ĐMST là một trong những công cụ, giải pháp đột phá. Tư duy đó đã và đang chuyển thành các hành động theo hướng chú trọng xây dựng một hệ thống pháp lý đồng bộ kích thích đầu tư phát triển KHCN, nâng cao năng lực nghiên cứu cho các tổ chức KHCN, tăng cường liên kết quốc tế và thu hút các chuyên gia KHCN người Việt Nam ở nước ngoài, khuyến khích các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm, chuyển dần từ cạnh tranh bằng giá rẻ sang cạnh tranh bằng chất lượng và KHCN. 

Qua 5 năm triển khai, theo số liệu giám sát và đánh giá, Dự án FIRST đã hoàn thành được các chỉ số mục tiêu cụ thể đặt ra từ ban đầu, trong đó gồm có: 

Về mặt hỗ trợ năng lực xây dựng thể chế, đã (i) xây dựng được khung giám sát đánh giá năng lực của các tổ chức KHCN tiệm cận các quy chuẩn quốc tế, có thể được áp dụng ở Việt Nam; (ii) tiếp thu và áp dụng được phương pháp của OECD để điều tra năng lực đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp - được thí điểm điều tra thành công hơn 7.000 doanh nghiệp ở Việt Nam; (iii) chuẩn hóa các phương pháp thống kê hiện đại/hài hòa với thông lệ quốc tế trong thông kê KH&CN và ĐMST ở Việt Nam; (iv) hiện đại hóa và đưa vào vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp thông tin KH&CN và ĐMST của Việt Nam; (v) hỗ trợ nghiên cứu chính sách, đặc biệt là xây dựng các khuyến nghị chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở Việt Nam dựa trên thực tiễn thí điểm của Dự án FIRST. 

Về thu hút chuyên gia giỏi KHCN người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài: Thông qua các dự án cụ thể, đã thu hút được hơn 90 chuyên gia, trong đó có hơn 30 chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện các dự án hợp tác, chuyển giao công nghệ với các viện/trường ở Việt Nam; trực tiếp nâng cao trình độ nghiên cứu chuyên sâu cho hơn 120 nhà khoa học Việt Nam ở các cơ sở nghiên cứu tiên tiến tại Nhật, Úc, Hoa Kỳ, Israel, CHLB Đức; trực tiếp giúp các nhà khoa học Việt Nam giải quyết được một số thách thức về KH&CN mà trong nước đang gặp phải, qua đó giúp làm chủ được một số công nghệ mới, hay sản xuất được một số sản phẩm mẫu được đánh giá có tiềm năng thị trường lớn. Điều đáng lưu ý là thông qua các sự kiện kết nối của Dự án FIRST, đã có hơn 600 chuyên gia KHCN người nước ngoài và người Việt ở nước ngoài đã kết nối với các đối tác trong nước tiếp tục thực hiện các hoạt động hợp tác nghiên cứu và phát triển công nghệ. 

Về đầu tư đề hỗ trợ chuyển đổi một số tổ chức KHCN công lập theo hướng tự chủ và gắn kết với thị trường: Thông qua quy trình lựa chọn công khai, minh bạch và được thẩm định bởi Hội đồng chuyên gia quốc tế, đã có 16 tổ chức KHCN công lập nhận tài trợ từ Dự án FIRST. Sau khi kết thúc Dự án, họ đã làm chủ được những công nghệ cốt yếu, xây dựng được đội ngũ nghiên cứu theo đuổi các công nghệ đó; đồng thời tạo ra được một số sản phẩm chủ lực được thương mại hóa hiệu quả, làm tăng nguồn thu một cách đáng kể, giúp đơn vị tự chủ về tài chính để tiếp tục tái đầu tư phát triển theo định hướng chiến lược đã được vạch ra. Sau khi kết thúc Dự án FIRST, có những đơn vị đã đạt tự chủ 100%, mức doanh thu tăng sau 2 năm hơn 30% (hàng chục tỷ đồng), một số sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước (Viện điện tử - tin học – tự động hoá, Viện nghiên cứu Ngô); sản phẩm xuất khẩu (cá chim vây vàng, mực in nano; sản phẩm có hàm lượng công nghệ tiên tiến có giá trị gia tăng lớn (tế bào gốc, phụ gia sinh học, giống lúa được công nhận là giống quốc gia đã được chuyển giao và trồng rộng rãi. 

Điều đáng lưu ý là với sự đầu tư từ Dự án FIRST về trang thiết bị, các đơn vị đã huy động các trang thiết bị sẵn có để hình thành nên những phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế về ISO và VILAS. Điều này đã giúp các đơn vị triển khai các dịch vụ KHCN với trình độ cao, đồng thời tiếp cận được các chuẩn mực quốc tế. 

Về hỗ trợ liên kết đổi mới công nghệ giữa doanh nghiệp với viện/trường và khuyến khích phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ mới (start-ups): 

Đã có 3 doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ mới và 11 Nhóm liên kết doanh nghiệp - viện/trường kết thúc thành công dự án. Tất cả các doanh nghiệp này đều tạo ra được những sản phẩm mới, có hàm lượng công nghệ nổi trội và có thị trường lớn. 03 doanh nghiệp khởi nghiệp đã và đang mở rộng thị trường và bắt đầu có lãi. 01 doanh nghiệp tiếp tục gọi được vốn đầu tư để mở rộng sản xuất (Công ty Minh Việt với sản phẩm Magic Book); 01 doanh nghiệp có sản phẩm đã được thị trường Nhật, Đức và Mỹ chấp nhận, đang chuẩn bị mở rộng dây chuyền sản xuất (Công ty Hidumi Pharma với sản phẩm tảo xoắn Spuriluna); 01 doanh nghiệp đã có hơn 1 triệu người dùng và có lãi đạt hơn 30% (Công ty Trí Nam với sản phẩm Vtick quản lý công việc). 

11 nhóm liên kết (Consortia) đã hoàn thiện và chứng minh được dây chuyển sản xuất ở quy mô pilot, tạo ra được những sản phẩm mới được kiểm chuẩn, kiểm tra chất lượng, đăng ký bảo hộ và bước đầu thương mại hóa. Ngay sau khi kết thúc dự án, các nhóm liên kết này tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô nhà máy và dây chuyền sản xuất để tạo ra những sản phẩm mới trên thị trường. 

Bà Đào Thị Thùy Dung: Mục tiêu của dự án là thí điểm các chính sách nên việc lan toả kết quả có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể: một mặt dự án cũng như các tiểu dự án đều có các kế hoạch về đưa kết quả hoạt động đến gần được với thị trường, mặt khác Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN đang tiến hành xây dựng các báo cáo về các kết quả thí điểm các chính sách này đến với các nhà hoạch định chính sách để các bài học kinh nghiệm về chính sách thu được qua dự án sẽ đưa vào chính sách mới nhằm hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của KHCN và ĐMST.

Hoàng Thùy Dung (25 tuổi), Phú Thọ: Lý do nào để nhóm nghiên cứu đề xuất triển khai thực hiện tiểu dự án FIRST, thưa ông? Sự khác biệt của dự án FIRST so với những dự án khác mà Viện Khoa học Vật liệu đã tham gia là gì?

TS. Bùi Hùng Thắng: Chúng tôi đã có một thời gian nghiên cứu về lĩnh vực tản nhiệt ứng dụng vật liệu cácbon nano, tuy nhiên việc nghiên cứu chủ yếu là do tập thể cán bộ nghiên cứu trong nước thực hiện. Do vậy chúng tôi nghĩ rằng nếu như có sự hỗ trợ từ chuyên gia giỏi có tầm ảnh hưởng quốc tế thì hoạt động nghiên cứu của chúng tôi có thể tạo ra được sự đổi mới và đột phá, vì đôi khi chỉ cần những trao đổi nhỏ, có một ý tưởng mới, hay có được kinh nghiệm mấu trốt nào đó cũng có thể tạo ra được những kết quả sáng tạo trong khoa học công nghệ.

Tuy nhiên việc mời chuyên gia giỏi nước ngoài tham gia vào hoạt động nghiên cứu của đơn vị không phải dễ dàng, trong đó có cả yếu tố về tài chính của đơn vị. Chính vì vậy khi biết được hợp phần 1A của dự án FIRST tài trợ cho chuyên gia giỏi nước ngoài về Việt Nam làm việc, chúng tôi đã quyết định viết đề xuất để xin tài trợ thực hiện tiểu dự án FIRST. Chính vì vậy có thể nói sự khác biệt lớn nhất của dự án FIRST so với những dự án khác mà Viện Khoa học Vật liệu đã tham gia đó là chúng tôi tập trung nghiên cứu những vấn đề mới mà Việt Nam chưa tiếp cận và thế giới đang nghiên cứu với sự hỗ trợ của các chuyên gia giỏi nước ngoài để tạo ra những kết quả sáng tạo, qua đó tiến hành đăng ký sở hữu trí tuệ và phối hợp doanh nghiệp để thử nghiệm ứng dụng kết quả nghiên cứu.

Đỗ Thùy Dương (29 tuổi), Hà Nội: Một trong những mục tiêu Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN đặt ra khi thực hiện Dự án FIRST là thí điểm một số cơ chế, chính sách mới. Việc này đã được triển khai và đạt hiệu quả như thế nào, thưa ông? Một số bài học thành công được đưa ra là gì?

Ông Lương Văn Thắng: Một số thí điểm cơ chế cụ thể trong Dự án FIRST được Bộ KHCN và WB đưa vào triển khai có thể kể đến là: (i) thu hút các chuyên gia KHCN giỏi nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài; (ii) huy động doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho KHCN, đồng thời liên kết với nhau và liên kết với các nhà khoa học để ứng dụng KHCN vào sản xuất để tạo ra các sản phẩm mới; (iii) khuyến khích phát triển doanh nghiệp KHCN (start-up); (iv) đầu tư đúng ngưỡng tạo cú huých cho các tổ chức KHCN công lập tự chủ và hướng đến việc trở thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc trong khu vực; và (v) cơ chế mới để lựa chọn, đầu tư và quản lý các đề tài/dự án KHCN. 

Trong thực tế triển khai, dưới sự giám sát chặt chẽ của WB và Bộ KHCN, một mặt, Dự án FIRST đã đạt được các kết quả cam kết về “phần cứng” theo quy định; các kết quả cụ thể đó đã góp được một phần “đo lường” tính hợp lý của cơ chế trong thực tiễn, từ đó cung cấp thông tin để Bộ KHCN có các quyết định chính sách lớn. Việc này không phải đợi đến khi Dự án kết thúc, một số nội dung thí điểm của Dự án đã được tích hợp trong một số chủ trương, chính sách thúc đẩy ĐMST trong thời gian qua. Có thể kể đến như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST; thu hút cá nhân hoạt động KHCN là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài tham gia hoạt động KHCN ở Việt Nam; đổi mới cơ chế quản lý các nhiệm vụ KHCN; giám sát và đánh giá các tổ chức KHCN công lập;…

Phạm Dương Hằng (29 tuổi), Nghệ An: Nhóm hợp tác Hương Trà thực hiện dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ, dây chuyền thiết bị sản xuất, chế biến sản phẩm thạch anh dạng tinh thể chất lượng tối ưu dùng cho ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ vật liệu mới,… từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại Việt Nam” với sự đầu tư của Dự án Dự án FIRST. Với kinh nghiệm thực tế, ông có thể chia sẻ những thuận lợi, khó khăn và những bài học kinh nghiệm khi triển khai dự án đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN?

Ông Hồ Viết Cầm: Tôi rất vui mừng được nhận tình cảm của FIRST dành cho tôi và nhóm hợp tác Hương Trà. Đất nước Việt Nam nói chung và quê hương tôi nói riêng nguyên liệu tương đối đa dạng và phong phú. Công nghệ được FIRST tài trợ là một công nghệ tiên tiến nhất hiện nay trên thế giới, làm giàu tài nguyên bằng công nghệ vi sinh học nên bảo đảm thân thiện với môi trường, chất lượng và giá trị cạnh tranh ngang với Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ.

Về khó khăn, khi đề xuất để thực hiện đề tài KHCN không được thuận lợi về mặt chia sẻ của các ban, ngành, địa phương và đồng nghiệp. Bài học kinh ngiệm rút ra sau khi triển khai dự án ĐMST thông qua nghiên cứ KHCN là phải tìm hiểu, chia sẻ, biết lắng nghe và học hỏi. Nhất là phải liên kết được các cá nhân nhà khoa học, các Viện, trường để có được sự ủng hộ, giúp đỡ.

Trần Duy Đông (23 tuổi), Thanh Hóa: Thưa ông, ông có thể chia sẻ cho độc giả biết về nhu cầu và thực tế sản xuất sản phẩm thạch anh hiện nay? Cơ duyên nào để Nhóm hợp tác cùng chung ý tưởng đề xuất thực hiện tiểu dự án đã được Bộ KHCN phê duyệt?

Ông Hồ Viết Cầm: Căn cứ vào hiện tại thực tế nhu cầu sử dụng về thạch anh trong nghành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, công nghiệp năng lượng, hiện thạch anh nhập khẩu chiếm tới 80%. Theo tôi được biết, chỉ riêng tập đoàn VICOSETON đã phải nhập khẩu gần 100.000 tấn/năm, giá trị nhập khẩu tương ứng 1,3 tỷ USD/ năm. Đây là một lợi thế cho các nhà doanh nghiệp, đòi hỏi các nhà khoa học, các bộ ban nghành và Chính phủ nghiên cứu xem xét. Trong khi đó, Việt Nam chủ cốt chế biến, khai thác ở dạng thấp không đáp ứng được phục vụ trong nghành công nghệ cao, một phần nào làm thất thoát giá trị tài nguyên (trong những năm gần đây chủ cốt xuất theo nghành tiểu ngạch, bán rẻ cho các nước trong khu vực).

Qua gặp gỡ và thăm tập đoàn BABA Ấn Độ, từ ý tưởng đấy tôi nung nấu với ý chí phải biến cục đá ở quê hương tôi đưa sang nước Mỹ và Châu Âu. Qua buổi đầu, tôi gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài nỗ lực phấn đấu vươn lên, tôi được sự chia sẻ, giúp đỡ của ông Chủ tịch hội đồng quản trị - Tổng Giám đốc tập đoàn VICOSETON Hồ Xuân Năng.

Đào Văn Thuyết (33 tuổi), Ninh Bình: Được biết, đơn vị của bà là một trong số các đơn vị được Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN hỗ trợ thông qua việc thực hiện Dự án FIRST. Bà có thể chia sẻ về những kết quả cũng như yếu tố đổi mới sáng tạo của tiểu dự án?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà : Là một trong số ít tổ chức KHCN trúng tuyển gói tài trợ của Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN thông qua việc thực hiện Dự án FIRST, thuộc Tiểu Hợp phần 2a, Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc hóa dầu (KEYLAB PRT) đã nỗ lực thực hiện Tiểu dự án và đã thu được các kết quả được đánh giá là xuất sắc. Cụ thể:

Về KHCN Đã nghiên cứu, phát triển và xác lập được 9 cụm quy trình công nghệ với tổng cộng 20 qui trình; 13 mẫu sản phẩm và nhiều sản phẩm mở rộng khác, thuộc các hướng nghiên cứu về công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể trong sản xuất dung môi sinh học; chế tạo và ứng dụng vật liệu nano trong sản xuất pin nhiên liệu DEFC; các công nghệ mở rộng khác liên quan đến xúc tác dị thể và quá trình lọc dầu sinh học.

Về tăng cường cơ sở vật chất Đã đầu tư mua mới 62 đầu thiết bị để tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế, phục vụ cho nghiên cứu, triển khai công nghệ và sản xuất sản phẩm của Tiểu dự án; đồng thời đã nâng cấp, duy tu trang thiết bị sẵn có của KEYLAB PRT để không những đáp ứng nhu cầu triển khai sản xuất thử nghiệm trong quá trình thực hiện Tiểu dự án mà còn đáp ứng nhu cầu mở rộng sản phẩm của Tiểu dự án trong lĩnh vực vật liệu mới; Đã mở rộng công nhận phòng thử nghiệm Vilas.

Về tăng cường năng lực nghiên cứu thông qua các khóa đào tạo và hợp tác nghiên cứu với các đối tác nghiên cứu ở trong nước và ở nước ngoài - Tham gia đào tạo 10 Tiến sỹ và 7 Thạc sỹ; Gửi đi đào tạo chuyên sâu 3 lượt người tại Hàn Quốc và 2 lượt người tại Pháp; Tổ chức lớp học chuyên đề do 6 chuyên gia người Pháp giảng dạy với 48 học viên có trình độ từ Thạc sĩ; - Công bố 14 bài báo trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế có uy tín; 17 bài báo trên các tạp chí chuyên ngành trong nước có uy tín; Tham gia 06 báo cáo tại hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế; Đăng ký 13 Sáng chế/Giải pháp hữu ích (trong đó có 2 Sáng chế và 2 Giải pháp hữu ích đã được cấp Bằng độc quyền). Trên 20% số Sở hữu trí tuệ nêu trên đã được đăng ký bảo hộ tại Cơ quan Bằng sáng chế và Thương hiệu Hoa Kỳ.

Về thương mại hóa, chuyển giao kết quả nghiên cứu và đảm bảo tính tự chủ Nhờ sự tài trợ của Tiểu Dự án FIRST, các hoạt động ứng dụng KHCN và thương mại hóa sản phẩm/công nghệ tại KEYLAB PRT đã được thúc đẩy mạnh mẽ. Đặc biệt, dòng sản phẩm mở rộng của Tiểu dự án FIRST, được phát triển trên cơ sở nền tảng, bí quyết công nghệ (know-how) của chính các công nghệ/sản phẩm của Tiểu dự án, có những đóng góp lớn trong việc mang lại doanh thu cho các hoạt động của KEYLAB PRT, tạo ra một “ngân hàng” công nghệ/sản phẩm mà KEYLAB PRT có thể đưa vào khai thác trong thời gian tới.

Qua những kết quả nêu trên, có thể nói, yếu tố đổi mới sáng tạo có mặt trong suốt quá trình thực hiện Tiểu dự án và thể hiện trong mọi kết quả đạt được. Thực tế, KEYLAB PRT đã áp dụng phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp và mới so với thế giới để thực hiện hai nhiệm vụ KHCN trong Tiểu dự án, gồm ươm tạo công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể trong sản xuất DMSH và phát triển công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu nano trong sản xuất pin nhiên liệu DEFC.

Nhờ vậy, các kết quả đạt được liên quan đến hai cụm công nghệ này đã có đủ tính mới và trình độ sáng tạo để có thể đăng ký bảo hộ độc quyền ở Việt Nam và trên thế giới, công bố các công trình khoa học trên tạp chí chuyên ngành có uy tín trên thế giới. Phương pháp tiếp cận với thực tiễn, thông qua việc tìm kiếm và phát triển mối quan hệ liên kết với doanh nghiệp để phát triển công nghệ, sản xuất sản phẩm và thương mại hóa sản phẩm là phương pháp phù hợp, có sự sáng tạo ngay trong quá trình thực hiện Tiểu dự án, đã mang lại hiệu quả to lớn trong hoạt động thương mại hóa công nghệ/sản phẩm của Tiểu dự án.

Nguyễn Thái Dương (30 tuổi), Hải Phòng: Viện Khoa học Vật liệu đã có được bài học, kinh nghiệm gì từ thành công của dự án “Nghiên cứu và phát triển công nghệ chế tạo vật liệu có độ dẫn nhiệt cao chứa thành phần cacbon cấu trúc nano và ứng dụng trong tản nhiệt cho linh kiện điện tử công suất lớn”?

TS. Bùi Hùng Thắng : Sau quá trình triển khai dự án FIRST, chúng tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau: trước hết nên tập trung vào những vấn đề nghiên cứu mới mà thế giới đang làm với sự hỗ trợ tối đa của các chuyên gia giỏi nước ngoài, vì như thế sẽ có hội để tạo ra sản phẩm sáng tạo thuận lợi hơn để được cấp văn bằng sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên những vấn đề mới cần được ưu tiên lựa chọn sao có sự gần gũi với việc ứng dụng vào thực tế.

Thứ hai là cần tăng cường các hoạt động đăng ký sở hữu trí tuệ đối với những kết quả nghiên cứu mới đã đạt được, vì không giống như các công trình bài báo quốc tế, bằng độc quyền sở hữu trí tuệ là tài sản có giá trị, là thước đo của sự sáng tạo, là căn cứ pháp lý để chuyển giao cho doanh nghiệp và là điều kiện ưu tiên để tạo sự cạnh tranh khi ứng dụng vào thực tiễn.

Thứ ba là đơn vị nghiên cứu cần kết hợp chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp, vì phải kết hợp với doanh nghiệp mình mới tiếp cận được hệ thống nhà xưởng, trang thiết bị và quy trình sản xuất, mới biết và hiểu được mình cần phải làm gì để nghiên cứu có thể ứng dụng được vào trong doanh nghiệp.

Vũ Việt Hà (33 tuổi), Hải Phòng: Bà đánh giá thế nào về các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam cũng như tiềm năng phát triển lĩnh vực này?

Bà Đào Thị Thùy Dung: Ngân hàng thế giới đang phối hợp với Chính phủ Việt Nam soạn thảo Chiến lược KHCN và ĐMST đến năm 2035, kết hợp các bài học kinh nghiệm tại Việt Nam và trên thế giới để KHCN và ĐMST ở Việt Nam có thể dần bắt kịp với nhịp độ phát triển KHCN và ĐMST trên thế giới.

Kinh nghiệm từ quá trình thực hiện dự án FIRST cho thấy Việt Nam có rất nhiều tiềm năng với đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ được đào tạo bài bản, các doanh nghiệp trẻ nhiều ý tưởng sáng tạo. Tuy nhiên, để hỗ trợ và thúc đẩy phát triển KHCN và ĐMST, Việt Nam cần có thêm hành lang pháp lý và các chính sách khuyến khích và định hướng phát triển đúng đắn. Để khuyến khích sự tham gia của lĩnh vực tư nhân và phát triển KHCN và ĐMST, cần tăng cường hiệu quả của các thủ tục hành chính, tăng cường trao quyền và trách nhiệm giải trình cho các đơn vị thực hiện.

Phạm Quang Huy (40 tuổi), Hà Tĩnh: Xin được hỏi bà Hà, các sản phẩm của tiểu dự án đến nay đã được thương mại hóa và đem lại lợi ích, giá trị cho đơn vị và trong đời sống xã hội như thế nào, thưa bà?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Sự hỗ trợ của Tiểu dự án FIRST đã giúp KEYLAB PRT hoàn thiện rất nhiều công nghệ và sản phẩm, đã được “thai nghén” và nghiên cứu triển khai trong suốt 15 năm qua, kể từ khi thành lập. Có không dưới 10 dòng sản phẩm đã được thương mại hóa trên thị trường, nhiều công nghệ đã được chính KEYLAB PRT áp dụng trên thực tiễn, đồng thời KEYLAB PRT có đủ năng lực để triển khai ít nhất 3 dự án đầu tư ở quy mô công nghiệp, với trình độ công nghệ tiên tiến bậc nhất theo hình thức “chìa khóa trao tay”, khi có nhu cầu đầu tư.

Các hoạt động thương mại hóa sản phẩm và công nghệ, hoạt động dịch vụ, tư vấn, giúp đảm bảo được 100% nhu cầu kinh phí hoạt động cho KEYLAB PRT, ngay từ năm 2019, đồng thời dự kiến đảm bảo 100% kinh phí đầu tư, không phải phụ thuộc vào đầu tư của Nhà nước, từ năm 2022. Các công nghệ đã hoàn thiện trong Tiểu dự án đều đã được đăng ký bảo hộ độc quyền nên việc ứng dụng công nghệ ở quy mô công nghiệp là thuận lợi về mặt pháp lý. KEYLAB PRT sẽ đồng hành cùng doanh nghiệp trong suốt vòng đời công nghệ/sản phẩm. Nhờ đó, công nghệ luôn được hoàn thiện, nâng cấp về trình độ, quá trình sản suất sản phẩm liên tục được nâng cao về năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nhờ đó tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Đặc biệt, các công nghệ/sản phẩm được phát triển trong Tiểu dự án đều thân thiện với môi trường, thể hiện ở các điểm, như không phát sinh phế thải thứ cấp nhờ tận thu và chế biến sâu mọi phế phụ phẩm thành các sản phẩm có giá trị, các thiết bị công nghệ đều được tích hợp với hệ thống công nghệ xử lý môi trường hiện đại, hiệu quả. Nguyên liệu sử dụng nếu có nguồn gốc tái tạo thì đều là các nguyên liệu không cạnh tranh với lương thực, thực phẩm.

Ví dụ, tính toán một cách thuần túy cơ học, chỉ một dòng sản phẩm KHCN từ Tiểu dự án được áp dụng đại trà và/hoặc ở qui mô công nghiệp sẽ mang lại lợi nhuận ròng trực tiếp cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế không dưới ba nghìn tỷ đồng/năm, trong khi chi phí đầu tư để áp dụng kết quả xấp xỉ “0” đồng, theo đúng giá trị cơ học. Kèm theo đó, các quá trình phát triển này không những không ảnh hưởng đến môi trường mà còn góp phần giảm thiểu đáng kể ô nhiễm môi trường. Việc ứng dụng của sản phẩm như vậy còn góp phần thực hiện thành công chương trình phát triển năng lượng sạch, sử dụng hiệu quả năng lượng, chương trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa của Đảng và Chính phủ, từng bước tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Nguyễn Hoàng Duy (38 tuổi), Sơn La: Sự đầu tư của Nhà nước thông qua hỗ trợ Nhóm hợp tác thực hiện tiểu dự án này đến nay đã đạt được những kết quả và sức lan tỏa, đóng góp cho kinh tế - xã hội thế nào, thưa ông Hồ Viết Cầm?

Ông Hồ Viết Cầm: Tôi cảm nhận sự đầu tư của nhà nước đã và đang thu hút, tìm ra các nhà khoa học thực tế trong sản xuất từ doanh nghiệp. Dự án của nhóm hợp tác Hương Trà đã thành công ngoài mong đợi, đưa được sản phẩm ra thị trường, xây dựng tại Quảng Bình. Hiện nay, Hương Trà đã xây dựng kênh tiêu thụ và phân phối tại TP Hồ Chí Minh (Công ty Cát Ngọc).

Hương Trà cũng đã liên kết với tập đoàn HOMELAND PARADISE VILLAGE xây dựng nhà máy đá nhân tạo để sản phẩm của dự án FIRST tài trợ có đủ điều kiện xuất sang Mỹ và Châu Âu, phục vụ cho các công trình trọng điểm trong nước. Hương Trà đang hoàn thiện đề án, giáo án để liên kết với Viện Công nghệ Nha Trang, các trường xây dựng trong nước đưa chương trình vào giảng dạy và đào tạo, cung cấp một sản phẩm tri thức cho đất nước; hoà nhập vào cuộc cách mạng 4.0.

Trương Tuấn Lợi (26 tuổi), TP Hồ Chí Minh: Bà đánh giá như thế nào về kết quả triển khai các tiểu dự án thuộc Dự án FIRST? Có kết quả nào để lại ấn tượng sâu sắc với bà không?

Bà Đào Thị Thùy Dung : Qua 5 năm thực hiện, dự án đã đi gần đến thời điểm kết thúc (đóng ngày 31.12.2019), phần lớn các hoạt động của các tiểu dự án đã hoàn thành và đang bước vào giai đoạn nghiệm thu thanh quyết toán. Mặc dù có những khó khăn trong thời kỳ đầu thực hiện, những kết quả mà dự án nói chung và các tiểu dự án đã đạt được đến thời điểm này đều rất ấn tượng và đáng tự hào. Các kết quả đặt được ở cấp tiểu dự án đều ấn tượng và có những kết quả vượt ngoài mong đợi của dự án.

Ví dụ: khi chúng tôi đến thăm tiểu dự án, của trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh, nhóm thực hiện tiểu dự án nói rằng họ rất tự hào về các kết quả đạt được. Nhờ dự án họ được tiếp cận và làm chủ công nghệ mới nhất trong sản xuất chip điện tử, thiết lập được quan hệ đối tác với các giáo sư hàng đầu trong lĩnh vực này tại Nhật bản. Sau khi dự án kết thúc, mối quan hệ hợp tác này tiếp tục được duy trì và mở rộng, từ 1 sản phẩm trong tiểu dự án, nhóm nghiên cứu đã cho ra các sản phẩm khác phù hợp với nhu cầu thị trường và đã có khách hàng và các đơn đặt hàng lớn, là cơ sở để nhóm nghiên cứu tiếp tục phát triển và mở rộng.

Mô hình nhóm hợp tác giữa các viện trường và doanh nghiệp tư nhân là mô hình mới nhất, gặp nhiều khó khăn nhất nhưng cũng cho ra những kết quả và các bài học kinh nghiệp đáng giá cho việc xây dựng chính sách phát triển ĐMST ở Việt Nam. Vì những khó khăn này mà đã có không ít nhóm hợp tác bỏ cuộc giữa chừng, và điều này là hết sức bình thường trong quan niệm của Ngân hàng thế giới. Nhóm hợp tác về tạo tinh thể thạch anh, chỉ khâu, sản phẩm từ tảo xoắn, v.v.. từ nguyên liệu trong nước thay thế sản phẩm nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng trong nước đồng thời sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường. Hay đơn vị sản xuất các sản phẩm từ các chế phẩm từ tôm.

Không chỉ là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu hợp tác trực tiếp với doanh nghiệp, tạo tiền đề cho quan hệ hợp tác lâu dài và hiệu quả giữa các nhà nghiên cứu, sản xuất và đưa sản phẩm đến với người sử dụng cuối cùng. Doanh nghiệp khởi nghiệp cũng là 1 phần rất quan trọng trong thiết kế của dự án, tuy chỉ tài trợ 3 doanh nghiệp khởi nghiệp, kết quả khả quan và Ngân hàng thế giới cho đây là hướng đi đúng và cần phát huy. Các đơn vị công lập cũng cho thấy sự tăng cường về năng lực quản lý dự án và quản lý tài chính, khả năng tiếp cận thị trường.

Trần Minh Đức (44 tuổi), Ninh Bình: Có ý kiến cho rằng, để phát triển KHCN và thúc đẩy đổi mới sáng tạo cần tăng cường đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, đặt doanh nghiệp làm trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo. Với vai trò Giám đốc Ban Quản lý Dự án FIRS, ông có thể cho biết Dự án FIRST đã góp phần thực hiện định hướng này như thế nào?

Ông Lương Văn Thắng: Dự án FIRST được thiết kế bởi Bộ KHCN và Ngân hàng Thế giới với mục tiêu thúc đẩy đổi mới sáng tạo ở Việt Nam, trong đó chú trọng đến hoạt động đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp. Do vậy, ngay từ ban đầu doanh nghiệp đã được đặt vào vị trí trung tâm, cụ thể:

- Doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp và chủ động đề xuất ý tưởng, lựa chọn công nghệ, lựa chọn đối tác liên kết lên kế hoạch thực hiện.

- Doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp quyết định sử dụng nguồn lực của mình kết hợp với nguồn lực từ Dự án FIRST để đạt được kết quả cuối cùng.

- Doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp quyết định sản phẩm và chiến lược kinh doanh sau khi dự án kết thúc. Trong quá trình triển khai, Ban quản lý dự án FIRST có nhiệm vụ giám sát để bảo đảm vai trò trung tâm của doanh nghiệp được thể hiện như đã thiết kế.

Khoa Minh Hoàng (40 tuổi), Đồng Nai: So với các sản phẩm cùng loại hiện nay, các sản phẩm nghiên cứu thành công trong Dự án“Nghiên cứu và phát triển công nghệ chế tạo vật liệu có độ dẫn nhiệt cao chứa thành phần cacbon cấu trúc nano và ứng dụng trong tản nhiệt cho linh kiện điện tử công suất lớn” có ưu điểm như thế nào và đã mang lại lợi ích gì trong ứng dụng thực tế?

TS. Bùi Hùng Thắng : Tiểu dự án 16/FIRST/1a/IMS tập trung nghiên cứu chế tạo tạo vật liệu có độ dẫn nhiệt cao chứa thành phần cacbon cấu trúc nano do những vật liệu liệu này có độ dẫn nhiệt ưu việt, cụ thể CNTs có độ dẫn nhiệt lên đến 2.000 W/mK, Graphene có độ dẫn nhiệt lên đến 5.000 W/mK, trong khi độ dẫn nhiệt của kim loại đồng chỉ vào khoảng 400 W/mK. Vì vậy khi CNTs và Graphene được đưa và phân tán tốt vào trong nền kem tản nhiệt và chất lỏng tản nhiệt thì sẽ giúp nâng cao đáng kể độ dẫn nhiệt so với các vật liệu tản nhiệt thông thường.

Khi ứng dụng loại kem tản nhiệt và chất lỏng tản nhiệt này cho linh kiện thiết bị điện tử thì sẽ giúp nâng cao hiệu suất, sự hoạt động ổn định cũng như kéo dài độ bền và tuổi thọ cho linh kiện và thiết bị. Viện cũng đã thành công trong việc ứng dụng vật liệu tản nhiệt nano vào đèn pha LED công suất 500W và đèn đường LED công suất từ 100 – 200W để giúp nâng cao tuổi thọ, độ bền, hiệu suất và sự hoạt động ổn định của đèn LED.

Hồ Quang lập (44 tuổi), Nghệ An: Đánh giá của Bà về việc thí điểm các chính sách đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN của Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN thông qua việc triển khai Dự án FIRST?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà : Chúng tôi nhận thấy mô hình đầu tư của Dự án FIRST có tác động và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các tổ chức KHCN. Từ trước đến nay, nhiều tổ chức KHCN đã được thụ hưởng sự hỗ trợ đến từ nhiều dự án đầu tư khác nhau, nhưng để đầu tư “đến ngưỡng”, sao cho các tổ chức KHCN thực hiện chuyển đổi thành công theo mô hình tự chủ, như chủ trương của Nghị định 54 của Chính phủ thì mô hình đầu tư của Dự án FIRST là hợp lý nhất, mang ý nghĩa lớn nhất, đảm bảo cho các tổ chức KHCN vượt lên mọi rào cản để tự chủ.
Nhân đây, chúng tôi bày tỏ sự mong muốn Bộ KHCN và Chính phủ tiếp tục phát triển mô hình đầu tư như Dự án FIRST, để có thể hỗ trợ những tổ chức KHCN khác trở thành các tổ chức định hướng thị trường và tự chủ tài chính, đồng thời phát triển được ngành KHCN của nước nhà, tiệm cận trình độ thế giới.

Bùi Đức Thìn (44 tuổi), Quảng Trị: So với mục tiêu đặt ra khi đầu tư, Dự án FIRST có đáp ứng được những kỳ vọng, mục tiêu của Ngân hàng Thế giới hay không, thưa bà Đào Thị Thùy Dung?

Bà Đào Thị Thùy Dung : Dự án đang soạn thảo báo cáo đánh giá cuối dự án và Ngân hàng thế giới đang chuẩn bị tiến hành báo cáo đánh giá dự án. Sau khi báo cáo hoàn thành sẽ có kết quả chính xác về việc nhưng kết quả đạt được có đáp ứng được mục tiêu mà dự án đã đặt ra hay không. Nhưng đến thời điểm này, đánh giá bước đầu về các kết quả đạt được là rất khả quan. Tuy nhiên nhìn từ góc độ Ngân hàng Thế giới, chúng tôi không chỉ quan tâm đến các kết quả đạt được trước mắt, mà muốn dự án có được các tác động lâu dài về mặt chính sách nhằm phát triển KHCN và ĐMST ở Việt Nam. Chúng tôi hy vọng các kết quả dự án đã đạt được sẽ tiếp tục được duy trì và phát huy, các bài học kinh nghiệm được chia sẻ và đưa vào các chính sách mới.

Đoàn Ngọc Lâm (33 tuổi), Hà Nội: Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc, hóa dầu (KEYLAB PRT) đi lên từ nhiều khó khăn ban đầu, đến nay đơn vị đã trở thành Phòng thí nghiệm hoạt động tự chủ và có hoạt động nghiên cứu, thương mại hóa sản phẩm rất mạnh. Bà có thể chia sẻ cụ thể về điều này cũng như những kinh nghiệm, bài học thành công của đơn vị?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà : Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ lọc, hóa dầu được thành lập từ năm 2003. Ngay từ khi thành lập, KEYLAB PRT đã vận hành theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KHCN công lập. Điều đó có nghĩa là KEYLAB PRT không được nhận hỗ trợ từ ngân sách trong đầu tư mua sắm trang thiết bị, củng cố cơ sở hạ tầng phòng thí nghiệm; không được nhận kinh phí hỗ trợ hoạt động thường xuyên (đặc biệt là không có lương từ ngân sách), kinh phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị, mua sắm phụ tùng, phụ kiện, vật tư bổ sung, thay thế cho các thiết bị, chống xuống cấp. Theo đó, PTNTĐ phải tự lo trang trải cho mọi hoạt động, theo mô hình tự chủ, như một doanh nghiệp.

Có được thành công như ngày nay là nhờ KEYLAB PRT luôn chú trọng hoạt động xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa nỗ lực nâng cao vai trò và vị thế của KEYLAB PRT trên thế giới trong các hoạt động KHCN, vừa bám sát vào nhu cầu thực tiễn để không ngừng tạo ra các công nghệ tiên tiến có thể triển khai áp dụng trên thực tiễn, mang lại nguồn thu cho chính KEYLAB PRT, cũng như mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội. Tuy vậy, có thể nói, những thành quả mà KEYLAB PRT có được trước thời điểm được nhận tài trợ từ Tiểu dự án FIRST là từ sự cố gắng nỗ lực rất chật vật của thời kỳ “quá độ” tiến lên mô hình tự chủ. Nếu không có sự hỗ trợ để tăng cường năng lực lên một tầm cao mới (giống như một “cú hích”), KEYLAB PRT khó có đủ lực để tạo dựng được nguồn doanh thu ổn định, không thể tự chủ về sản phẩm KHCN cũng như không chiếm lĩnh được thị trường. Điều đó có nghĩa, KEYLAB PRT khó có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra là phải trở thành một tổ chức KHCN tự chủ, mạnh trong khu vực, giàu về tài chính và đóng góp tích cực cho nền kinh tế đất nước bằng những sản phẩm KHCN của mình.

Nói một cách cụ thể, KEYLAB PRT cũng chỉ có thể dừng lại ở mức độ có công nghệ nguồn và có sản phẩm mới nhưng không có đủ nguồn lực về cơ sở vật chất để chủ động ươm tạo công nghệ, phát triển và thương mại hóa sản phẩm, ở thị trường trong nước và vươn ra thế giới, mà phải trông chờ một cách bị động vào khách hàng doanh nghiệp. Chẳng hạn, đến trước thời điểm được nhận tài trợ từ Tiểu dự án FIRST, KEYLAB PRT đang sở hữu nhiều kết quả nghiên cứu có giá trị, có thể khai thác để triển khai thành các công nghệ nguồn, có giá trị ở quy mô toàn cầu, hoặc có nhiều công nghệ có thể ươm tạo để triển khai sản xuất sản phẩm thương mại hoặc chuyển giao để triển khai ở quy mô công nghiệp. Tuy nhiên, do tiềm lực về cơ sở vật chất chưa đủ mạnh, KEYLAB PRT không thể chủ động thực hiện các mục tiêu phát triển hoặc ươm tạo công nghệ mà phải trông chờ sự phối hợp thực hiện của doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng công nghệ, thông qua hình thức góp vốn đối ứng. Đáng tiếc, không phải lúc nào sự phối hợp trong hoạt động triển khai giữa KEYLAB PRT và khách hàng doanh nghiệp cũng gặp thuận lợi và diễn ra đúng thời điểm. Bởi vì, ngay cả khi có thể tiếp cận được với doanh nghiệp và doanh nghiệp thực sự có nhu cầu, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ tiềm lực và sẵn sàng chịu một phần rủi ro để cùng ươm tạo các công nghệ có tiềm năng mang lại hiệu quả kinh tế. Ngoài việc trông chờ vào sự phối hợp của doanh nghiệp, trong tình hình kinh phí đối ứng eo hẹp, KEYLAB PRT cũng rất khó có cơ hội tiếp cận được sự hỗ trợ thích đáng, cả về số lượng kinh phí và thời điểm nhận hỗ trợ, từ ngân sách nhà nước, để có thể tạo ra và cung cấp cho thị trường những sản phẩm với giá trị gia tăng cao, chứa đựng hàm lượng chất xám cao, có khả năng cạnh tranh cao, mang lại hiệu quả kinh tế cho xã hội và giúp KEYLAB PRT khẳng định vị thế trên thị trường. Rõ ràng, sự hỗ trợ từ Tiểu dự án FIRST là “nhịp cầu nối cuối cùng nhưng đặc biệt quan trọng” để KEYLAB PRT đi nốt con đường “từ Phòng thí nghiệm ra Nhà máy”, trong giai đoạn này.

Nguyễn Mạnh Hùng (21 tuổi), Hưng Yên: Kết quả này có lợi ích như thế nào đối với xã hội và đã lan tỏa như thế nào? Viện sẽ phát triển các kết quả đạt được như thế nào sau khi kết thúc tiểu dự án?

TS. Bùi Hùng Thắng : Vật liệu tản nhiệt chứa thành phần cácbon cấu trúc nano có khả năng ứng dụng cao cho các linh kiện và thiết bị điện tử công suất lớn, đặc biệt là đèn LED. Việc tản nhiệt tốt sẽ giúp nâng cao độ bền, tuổi thọ, hiệu suất và sự hoạt động của linh kiện và thiết bị điện tử đó, qua đó mang lại lợi ích về kinh tế cho sản phẩm.

Chúng tôi đã thử nghiệm ứng dụng kem tản nhiệt và chất lỏng tản nhiệt chứa thành phần Gr/CNTs cho đèn pha LED công suất 500W và các đèn đường LED công suất từ 100 – 200W để giúp nâng cao tuổi thọ, độ bền, hiệu suất và sự hoạt động ổn định của thiết bị. Với những kết quả tốt, Viện Khoa học vật liệu và Công ty TNHH Công nghệ và Xúc tiến Thương mại HALEDCO đã tiến hành ký kết hợp đồng ứng dụng công nghệ tản nhiệt nano chứa thành phần Graphene vào một số sản phẩm đèn LED của doanh nghiệp để đưa ra thị trường.

Ngoài ra sự lan tỏa của tiểu dự án còn được thể hiện qua việc nhiều cán bộ trong và ngoài Viện Khoa học vật liệu được truyền đạt những kinh nghiệm quý báu về cả chuyên môn, kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đến các kinh nghiệm về công bố kết quả nghiên cứu và triển khai ứng dụng.

Những kinh nghiệm này phần nào sẽ giúp cho các cán bộ nghiên cứu đạt được những kết quả tốt hơn trong hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng trong những giai đoạn sau đó. Sau khi kết thúc tiểu dự án, Viện Khoa học vật liệu sẽ tiếp tục phối hợp với doanh nghiệp để tiến hành nghiên cứu mở rộng ứng dụng vật liệu tản nhiệt CNTs/Graphene đến nhiều chủng loại sản phẩm khác, chẳng hạn như đèn pha LED công suất 1 kW, tản nhiệt cho các vi xử lý máy tính hay các thiết bị công nghiệp khác.

Nguyễn Hoàng Tùng (37 tuổi), Hà Nam: Viện đã kết nối và được các chuyên gia giỏi nước ngoài hỗ trợ như thế nào khi thực hiện tiểu dự án này?

TS. Bùi Hùng Thắng : Tập thể nghiên cứu của Viện đã chủ động mời các chuyên gia giỏi nước ngoài tham gia hỗ trợ thực hiện tiểu dự án. Với những chuyên gia giỏi nước ngoài việc liên hệ lúc đầu khá khó khăn, nhưng vì những chuyên trong dự án đều là nhà khoa học gốc Việt nên đơn vị đã nhận được sự nhiệt tình trong các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ. Đó chính là yếu tố quan trọng để các chuyên gia đóng góp và tạo ra sự thành công của tiểu dự án.

Tiểu dự án có sự tham gia của 2 chuyên gia gốc Việt Nam, trong đó có chuyên gia là GS. Nguyễn Sơn Bình (Hoa Kỳ), là một nhà khoa học nổi tiếng và trong nhiều năm được bình chọn là một trong số ít nhà khoa học gốc Việt Nam có tầm ảnh hưởng nhất thế giới. Chuyên gia thứ hai là TS. Nguyễn Đức Dũng (Đài Loan) có nhiều kinh nghiệm trong quá trình hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng tại các doanh nghiệp ở nước ngoài.

Chuyên gia GS. Nguyễn Sơn Bình (Hoa Kỳ) có nhiều đóng góp trong hoạt động nghiên cứu cơ bản chuyên sâu và học thuật, truyền đạt những kỹ năng nghiên cứu khoa học cho đến các kinh nghiệm về công bố kết quả nghiên cứu và triển khai ứng dụng, trong khi TS. Nguyễn Đức Dũng hỗ trợ nhiều hơn trong kinh nghiệm triển khai ứng dụng và phối hợp với doanh nghiệp để đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Ngô Minh Tuân (33 tuổi), Bình Dương: Việc triển khai tiểu dự án FIRST có ý nghĩa như thế nào với đơn vị trong việc góp phần nâng cao năng lực tự chủ, thưa Bà và ý kiến của bà về việc triển khai thí điểm chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực tự chủ của các tổ chức KHCN của Dự án FIRST?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Nhờ nguồn kinh phí được tài trợ từ Tiểu dự án, KEYLAB PRT đã được trang bị nhiều thiết bị hiện đại, đồng bộ, cho phép nghiên cứu phát triển các công nghệ tiên tiến, tiếp cận trình độ thế giới, trước mắt là đối với lĩnh vực ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể, vật liệu nano trong các quá trình sản xuất hóa chất và năng lượng vì sự phát triển bền vững, về lâu dài có thể mở rộng sang các lĩnh vực công nghiệp khác. Tiểu dự án giúp KEYLAB PRT thực hiện được mục tiêu đảm bảo tự chủ về tài chính, dần trở thành một cơ sở R&D hàng đầu của cả nước và tiệm cận với trình độ khu vực và thế giới, với cơ sở vật chất KHCN hiện đại và đội ngũ nhân lực KHCN chất lượng cao.

KEYLAB PRT sẽ có đủ năng lực để thực hiện chiến lược nghiên cứu của mình, tạo ra các công nghệ nguồn để chuyển giao vào sản xuất, các sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao, qua đó giúp nâng cao nguồn thu cho KEYLAB PRT trước mắt và lâu dài. Nguồn nhân lực trình độ cao có được sau Tiểu dự án FIRST sẽ đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của KEYLAB PRT. Các cán bộ không những được đào tạo về kỹ năng thực hành mà còn được đào tạo nâng cao trình độ học vấn, nhờ đó nâng cao năng lực của KEYLAB PRT cả trong ứng dụng và nghiên cứu.

Ngoài ra, nguồn nhân lực nòng cốt này sẽ đào tạo các cán bộ khác, nâng cao trình độ cho toàn KEYLAB PRT và tạo ra sự phát triển bền vững. Ngoài ra, nhờ điều kiện làm việc tốt, chính sách đãi ngộ xứng đáng KEYLAB PRT sẽ có điều kiện thu hút và giữ chân nhân tài. Như vậy, đầu tư của Tiểu dự án không những nâng cao chất lượng mà còn nâng cao số lượng cho nguồn nhân lực của KEYLAB PRT. Điều này giúp KEYLAB PRT có đủ năng lực tham gia tuyển chọn các nhiệm vụ KH&CN từ doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế; tham gia triển khai thành công các công nghệ ở qui mô công nghiệp, phát triển thành công nhiều sản phẩm mới trên thị trường trong nước và quốc tế.

Sự thành công của Tiểu dự án FIRST đã tạo ra nhiều công nghệ nguồn, có trình độ tiên tiến, không những có thể triển khai trong nước mà còn có thể phối hợp với các đối tác nước ngoài để triển khai trong khu vực và quốc tế. Mô hình liên kết mà KEYLAB PRT phát triển được trong quá trình thực hiện Tiểu dự án, là mô hình Tổ chức KHCN - Doanh nghiệp/Doanh nghiệp khởi nghiệp, sẽ ra đời và hoạt động hiệu quả theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, góp phần làm cho các hoạt động KHCN trong nước tiệm cận với trình độ trong khu vực và quốc tế, đồng thời mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân.

Từ những kết quả thu được trong quá trình thực hiện Tiểu Dự án FIRST thuộc Tiểu Hợp phần 2a, với nội dung “tài trợ cho các Tổ chức KHCN công lập về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo”, cá nhân tôi nhận thấy việc triển khai thí điểm chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực tự chủ của các tổ chức KHCN của Dự án FIRST là hoàn toàn đúng đắn, đã đạt được kết quả kỳ vọng và hiệu quả thu được có sức lan tỏa trong cộng đồng.

Ngô Minh Tuân (33 tuổi), Bình Dương: Xin hỏi bà Vũ Thị Thu Hà, việc triển khai tiểu dự án FIRST có ý nghĩa như thế nào đối với đơn vị trong việc góp phần nâng cao năng lực tự chủ và ý kiến của bà về việc triển khai thí điểm chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực tự chủ của các tổ chức KHCN của Dự án FIRST?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Nhờ nguồn kinh phí được tài trợ từ Tiểu dự án, KEYLAB PRT đã được trang bị nhiều thiết bị hiện đại, đồng bộ, cho phép nghiên cứu phát triển các công nghệ tiên tiến, tiếp cận trình độ thế giới, trước mắt là đối với lĩnh vực ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể, vật liệu nano trong các quá trình sản xuất hóa chất và năng lượng vì sự phát triển bền vững, về lâu dài có thể mở rộng sang các lĩnh vực công nghiệp khác. Tiểu dự án giúp KEYLAB PRT thực hiện được mục tiêu bảo đảm tự chủ về tài chính, dần trở thành một cơ sở R&D hàng đầu của cả nước và tiệm cận với trình độ khu vực và thế giới, với cơ sở vật chất KHCN hiện đại và đội ngũ nhân lực KHCN chất lượng cao. KEYLAB PRT sẽ có đủ năng lực để thực hiện chiến lược nghiên cứu của mình, tạo ra các công nghệ nguồn để chuyển giao vào sản xuất, các sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao, qua đó giúp nâng cao nguồn thu cho KEYLAB PRT trước mắt và lâu dài. Nguồn nhân lực trình độ cao có được sau Tiểu dự án FIRST sẽ đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của KEYLAB PRT. Các cán bộ không những được đào tạo về kỹ năng thực hành mà còn được đào tạo nâng cao trình độ học vấn, nhờ đó nâng cao năng lực của KEYLAB PRT cả trong ứng dụng và nghiên cứu. Ngoài ra, nguồn nhân lực nòng cốt này sẽ đào tạo các cán bộ khác, nâng cao trình độ cho toàn KEYLAB PRT và tạo ra sự phát triển bền vững. Nhờ điều kiện làm việc tốt, chính sách đãi ngộ xứng đáng KEYLAB PRT sẽ có điều kiện thu hút và giữ chân nhân tài.

Như vậy, đầu tư của Tiểu dự án không những nâng cao chất lượng mà còn nâng cao số lượng cho nguồn nhân lực của KEYLAB PRT. Điều này giúp KEYLAB PRT có đủ năng lực tham gia tuyển chọn các nhiệm vụ KHCN từ doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế; tham gia triển khai thành công các công nghệ ở qui mô công nghiệp, phát triển thành công nhiều sản phẩm mới trên thị trường trong nước và quốc tế. Sự thành công của Tiểu dự án FIRST đã tạo ra nhiều công nghệ nguồn, có trình độ tiên tiến, không những có thể triển khai trong nước mà còn có thể phối hợp với các đối tác nước ngoài để triển khai trong khu vực và quốc tế. Mô hình liên kết mà KEYLAB PRT phát triển được trong quá trình thực hiện Tiểu dự án, là mô hình Tổ chức KHCN - Doanh nghiệp/Doanh nghiệp khởi nghiệp, sẽ ra đời và hoạt động hiệu quả theo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, góp phần làm cho các hoạt động KHCN trong nước tiệm cận với trình độ trong khu vực và quốc tế, đồng thời mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân.

Từ những kết quả thu được trong quá trình thực hiện Tiểu Dự án FIRST thuộc Tiểu Hợp phần 2a, với nội dung “tài trợ cho các Tổ chức KHCN công lập về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo”, cá nhân tôi nhận thấy việc triển khai thí điểm chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực tự chủ của các tổ chức KHCN của Dự án FIRST là hoàn toàn đúng đắn, đã đạt được kết quả kỳ vọng và hiệu quả thu được có sức lan tỏa trong cộng đồng.

Vũ Mạnh Toàn (26 tuổi), Vĩnh Phúc: Theo bà, việc ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp tư nhân có những khó khăn gì?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà : Qua 2 năm thực hiện Tiểu dự án FIRST, vừa tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, vừa thực hiện các hoạt động tiếp cận thị trường, tiếp cận doanh nghiệp, với trên 100 cuộc gặp gỡ và đàm phán, liên quan đến thương mại hóa sản phẩm, chuyển giao/liên kết triển khai công nghệ, nhưng chỉ có không quá 5% cuộc gặp mang lại kết quả. Chúng tôi đã nhận thấy, những khó khăn trong quá trình ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp tư nhân. Đó là:

Thứ nhất, các doanh nghiệp không có nhu cầu, hoặc không muốn đổi mới quá trình/công nghệ/phương thức hiện hành (ảnh hưởng nhất thời đến sản xuất kinh doanh, tốn thời gian và kinh phí trước mắt - mặc dù biết rõ sẽ mang lại hiệu quả cao sau này). Nói khác đi, trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, chấp nhận rủi ro để không bỏ lỡ thời cơ phát triển đã trở thành thông lệ quốc tế, nhưng nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam chưa “tiếp cận” với xu hướng này.

Thứ hai, chi phí cho hoạt động ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo là không nhỏ (mà doanh nghiệp có thể không đáp ứng nổi, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn - thực sự là vô cùng khó khăn đối với doanh nghiệp khởi nghiệp).

Thứ ba, doanh nghiệp thiếu nhân lực có đủ trình độ chuyên môn để tiếp thu/thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, thiếu những khuyến khích, hỗ trợ thực sự hấp dẫn từ các chính sách của Nhà nước.

Lê Nguyễn Hà Linh (34 tuổi), TP Hồ Chí Minh: Được biết, đối tượng FIRST tập trung hỗ trợ là các viện, trường, doanh nghiệp. Với mỗi đối tượng, Dự án FIRST đã có những hỗ trợ như thế nào, thưa ông?

Ông Lương Văn Thắng: Dự án FIRST bao gồm 4 gói tài trợ chính theo các tiêu chí khác nhau: (i) Tài trợ cho các chuyên gia KHCN giỏi người nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài; (ii) Tài trợ cho các tổ chức KHCN công lập thực hiện chuyển đổi theo định hướng thị trường, tự chủ và phát triển bền vững về tài chính; (iii) Tài trợ đối ứng cho các doanh nghiệp công nghệ mới (start-up, spin-off,…); và (iv) Tài trợ đối ứng cho Nhóm liên kết đổi mới sáng tạo doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học.

Về nguyên tắc, tất cả các đối tượng gồm viện, trường, doanh nghiệp đều có thể tham gia (hoặc là người đứng đơn chính, hoặc người tham gia) vào tất cả các gói tài trợ nói trên, mặc dù mỗi loại hình sẽ có quy định riêng biệt, và có ưu tiên. Tuy vậy, nguyên tắc xuyên suốt và nhất quán của cả 4 gói tài trợ là: công khai, minh bạch, cạnh tranh, bình đẳng, theo tiêu chuẩn quốc tế và được giám sát/đánh giá bởi các chuyên gia quốc tế trước khi được WB và Bộ KHCN phê duyệt.

Nguyễn Văn Trí (45 tuổi), Bình Định: Theo bà, để thúc đẩy phát triển hoạt động KHCN và ĐMST, trong thời gian tới, cần có những giải pháp gì và vai trò của các bên sẽ như thế nào (nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức KHCN,…).

GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Chúng ta đều hiểu rằng sự nghiệp ĐMST trong doanh nghiệp không phải là mục tiêu tự thân. Vì vậy, để thúc đẩy ĐMST ở doanh nghiệp nhất thiết phải có sự vào cuộc quyết liệt của các bên, trước hết là bản thân doanh nghiệp với vai trò trung tâm của ĐMST, tiếp đến là tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, cần thiết cho doanh nghiệp (trường đại học, cao đẳng, trung học nghề) cùng các thiết chế hỗ trợ khác, như ngân hàng thương mại, các quỹ hỗ trợ. Doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt các tín hiệu của thị trường, hiểu rõ được tầm quan trọng của chuỗi giá trị sản phẩm trong việc mang lại giá trị gia tăng cao nhất cho doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân, từ đó chủ động thu hút, huy động sự tham gia của các viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức tín dụng để hình thành sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả hướng đến tạo ra và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa có sức cạnh tranh trên thị trường. Các tổ chức KH-CN phải luôn năng động và sáng tạo, một mặt không ngừng nâng cao vai trò và vị thế của mình trong lĩnh vực KHCN trên thế giới, mặt khác phải bám sát vào nhu cầu của doanh nghiệp để tạo ra các sản phẩm KHCN có khả năng triển khai ứng dụng. Nhà nước cần có những cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển hoạt động KHCN và ĐMST một cách phù hợp, hấp dẫn, tạo động lực cho hoạt động này.

Lã Hiền Minh (34 tuổi), Hà Nội: Để thúc đẩy hoạt động ĐMST, theo ông cần có những giải pháp gì, đặc biệt trong việc hỗ trợ các tổ chức KHCN, đặc biệt là doanh nghiệp nâng cao năng lực nghiên cứu KH, đổi mới và chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu?

Ông Lương Văn Thắng : Theo tôi có thể cân nhắc một số định hướng giải pháp sau (từ kinh nghiệm của dự án FIRST): Thứ nhất, tiếp tục chủ trương lấy doanh nghiệp là trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cần thúc đẩy phát triển mạnh mẽ lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, xem đây là đội ngũ doanh nghiệp có tiềm năng phát triển nhanh và vươn ra toàn cầu, tiếp cận thị trường quốc tế.

Thứ hai, thu hút doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua liên kết hữu cơ với các viện nghiên cứu, trường đại học.

Thứ ba, có những biện pháp cụ thể, thiết thực thu hút lực lượng đông đảo chuyên gia KHCN giỏi người Việt Nam ở nước ngoài về nước hợp tác chuyển giao công nghệ và thành lập các doanh nghiệp công nghệ mới ở Việt Nam.

Thứ tư, thúc đẩy tự chủ và tiếp cận thị trường của các tổ chức KHCN.

Thứ năm, tối ưu quy trình quản lý KHCN giảm thiểu các rào cản hành chính, tăng tính cạnh tranh công khai minh bạch trong lựa chọn và giám sát các đề tài KHCN, lấy kết quả đầu ra và hiệu quả liên kết với doanh nghiệp làm cơ sở để nghiệm thu.

Đặng Hồng Sơn (33 tuổi), TP Hồ Chí Minh: Nhiều ý kiến cho rằng, Dự án FIRST đã tạo ra “cú hích” cho các viện, trường, doanh nghiệp vươn lên trong hoạt động ĐMST. Ý kiến của Bà thế nào về nhận định này?

GS.TS Vũ Thị Thu Hà: Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định này. Đơn cử, trong Tiểu hợp phần 2a mà chúng tôi là một trong những đơn vị được thụ hưởng, Tiểu dự án FIRST đã giúp nâng cao năng lực của các đơn vị thụ hưởng cả về cơ sở vật chất và trình độ, năng lực của các cán bộ KHCN và nghiệp vụ. Sau khi triển khai thực hiện Tiểu dự án FIRST, các đơn vị thụ hưởng đã có đủ điều kiện tăng cường các nguồn lực, từ đó đẩy mạnh nghiên cứu sáng tạo, đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm chiến lược của đơn vị.

Với việc thực hiện Tiểu dự án FIRST, các đơn vị thụ hưởng có thêm nhiều cơ hội tăng cường hợp tác với các đối tác trong nước cả về bề rộng cũng như chiều sâu, đồng thời còn có nhiều cơ hội mở rộng hợp tác với các tổ chức khác trong nước, như các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các tổ chức có nhu cầu phân tích, giám định chất lượng sản phẩm. Đầu tư của Tiểu dự án FISRT đã nâng cao cả chất lượng lẫn số lượng cho nguồn nhân lực của các đơn vị thụ hưởng. Sau khi Tiểu dự án kết thúc và các sản phẩm của Tiểu dự án đã được đưa vào ứng dụng cũng như mở rộng và đa dạng hóa, các đơn vị thụ hưởng sẽ có đủ thế mạnh về nguồn nhân lực để có thể ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở quy mô công nghiệp, đáp ứng một phần nhu cầu phát triển nền công nghiệp bền vững, bằng chính nguồn lực KHCN trong nước. Với các trang thiết bị hiện đại được mua sắm từ Tiểu dự án, các đơn vị thụ hưởng đã được mở rộng phạm vi để thực hiện các chức năng phân tích, đánh giá, kiểm định chuyên ngành. Điều này không những giúp các đơn vị thụ hưởng có thêm công việc, thu nhập để tăng cường tính tự chủ về tài chính, mà còn giúp nâng cao vai trò, vị thế của các đơn vị thụ hưởng đối với các cơ quan quản lý chuyên ngành, từ đó có đóng góp nhiều hơn vào hoạt động quản lý Nhà nước. Với các trang thiết bị và cơ sở hạ tầng được đầu tư từ Tiểu dự án, các đơn vị thụ hưởng sẽ có đủ năng lực để thực hiện chiến lược phát triển của mình, tạo ra các công nghệ nguồn để chuyển giao vào sản xuất, các sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao, qua đó giúp nâng cao nguồn thu cho các đơn vị thụ hưởng trước mắt và lâu dài.

Phạm Hải Nam (45 tuổi), Quảng Trị: Ngân hàng Thế giới đang chú trọng đầu tư ĐMST trong lĩnh vực nào?

Bà Đào Thị Thùy Dung : ĐMST cần có trong mọi lĩnh vực, tuy nhiên với nguồn lực có hạn, Ngân hàng thế giới đang hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc xác định các lĩnh vực chú trọng đầu tư về ĐMST, hiện đang trong quá trình thảo luận nhưng đang hướng đến lĩnh vực nông nghiệp, công nghệ sinh học.

Nguyễn Thị Thảo (27 tuổi), Yên Bái: Theo bà, với điều kiện của Việt Nam, cần có những giải pháp gì để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo?

Bà Đào Thị Thùy Dung: ĐMST cần đến từ rất nhiều khía cạnh, khía cạnh chính sách (thúc đẩy, tạo điều kiện), thực thi chính sách, từ ý thức và ý chí. Sự tham gia của lĩnh vực tư nhân là tất yếu và có vai trò quyết định sự thành công của công tác ĐMST. ĐMST gắn liền với các rủi ro , chúng ta cần sẵn sàng đối phó và giảm thiểu rủi ro thay vì né tránh. Bản chất của ĐMST là có thành công và thất bại, chấp nhận thất bại cũng là một yêu cầu của ĐMST.

Cần tăng cường và sử dụng hiệu quả ngân sách cho ĐMST. Hiện tại, ngân sách cho ĐMST vẫn chủ yếu tập trung cho khu vực công lập, hi vọng với những bài học từ FIRST thì sẽ có thêm ngân sách cho sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân. Ngân hàng thế giới sẽ luôn đồng hành và hỗ trợ trong công cuộc phát triển KHCN và ĐMST ở Việt Nam.

Nguyễn Thị Minh (40 tuổi), Hải Phòng: Dự án FIRST đã dành nguồn lực lớn hỗ trợ cho các tổ chức KHCN công lập thực hiện thành công dự án chuyển đổi theo định hướng thị trường, tự chủ và phát triển bền vững về tài chính. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu không có Dự án FIRST, đơn vị của họ không thể tự trang bị được cơ sở vật chất hiện đại phục vụ nghiên cứu. Thông qua những câu chuyện cụ thể, ông có thể chia sẻ rõ hơn về điều này?

Ông Lương Văn Thắng : Dự án FIRST chỉ là một trong những “kênh” đầu tư của Bộ KHCN và các Bộ, ngành chủ quản để thúc đẩy năng lực KHCN cho các tổ chức KHCN công lập theo định hướng thị trường, tự chủ và phát triển bền vững. Vì đây là một chủ trương ưu tiên của Nhà nước trong suốt thời gian qua. Dự án FIRST dành nguồn lực để hỗ trợ các tổ chức KHCN công lập tăng năng lực nghiên cứu bao gồm: tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm, đào tạo chuyên sâu theo nhóm cho các nhà khoa học, làm chủ một số công nghệ cốt lõi và thông qua đó tạo ra một số sản phẩm chủ lực để thương mại hóa, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện Chiến lược chuyển đổi theo định hướng thị trường, tự chủ và phát triển bền vững về tài chính của chính đơn vị.

Đến nay, các tổ chức KHCN do Dự án FIRST tài trợ đã thực hiện được mục tiêu ban đầu đề ra: các sản phẩm nghiên cứu, sáng chế/giải pháp hữu ích, giống cây trồng đã từng bước được thương mại hóa trên thị trường hoặc chuyển giao sang các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Các phòng thí nghiệm được công nhận đạt chuẩn VILAS hoặc ISO 17025.

Có thể khẳng định: sự hỗ trợ từ Dự án FIRST của Bộ KHCN đã góp phần tạo cú hích đáng kể để đơn vị thực hiện có hiệu quả chiến lược tự chủ của mình. Bên cạnh đó, bản thân đơn vị - với bề dày kinh nghiệm chuyên môn, sự năng động trong tái cấu trúc quản trị, tối ưu đầu tư, chủ động liên kết với doanh nghiệp - đã và đang chuyển đổi tổ chức mình theo lộ trình đề ra.

Ví dụ 1: Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Sau khi thực hiện dự án, Viện đã nâng cấp và hiện đại hóa được 6 phòng thí nghiệm, các cán bộ được đào tạo tại Hoa Kỳ và Viện nghiên cứu lúa quốc tế. Viện đã làm chủ được công nghệ chọn tạo giống lúa mới trên cơ sở kết hợp lai hữu tính và sử dụng chỉ thị phân tử. Nhiều giống lúa mới của Viện đã được chuyển giao cho doanh nghiệp, và được dùng thay thế các giống lúa trước đây.

Ví dụ 2: Phòng thí nghiệm trọng điểm lọc hóa dầu. Có 2 phòng thí nghiệm được đầu tư nâng cấp, trong đó có 1 PTN đạt chuẩn VILAS; hơn 50 cán bộ được đào tạo; làm chủ công nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị thể và vật liệu nano trong lĩnh vực lọc hóa dầu; làm chủ được công nghệ sản xuất 11 loại dung môi sinh học thay thế dung môi hóa thạch;... có 14 sáng chế được đăng ký trong đó có 4 sáng chế được chấp nhận ở Mỹ. Các sản phẩm đã được thương mại hóa, góp phần tăng gấp đôi doanh thu của đơn vị, sẽ tiến tới tự chủ hoàn toàn trong 5 năm tới. Ví dụ 3: Viện tế bào gốc. Đã làm chủ được công nghệ sản xuất thuốc tế bào gốc phục vụ điều trị một số bệnh trên người; nâng cấp 3 phòng thí nghiệm, trong đó có 1 PTN đạt chuẩn ISO 7, và một phòng đạt chuẩn ISO 17025; 5 sản phẩm được đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích; 2 sản phẩm được chuyển giao cho doanh nghiệp, tạo nguồn thu lớn đảm bảo cho Viện tự chủ 100%.

Nguyễn Linh (21 tuổi), Thái Nguyên: Việt Nam đã có nhiều dự án về ĐMST, vậy điểm khác biệt của Dự án FIRST là gì, thưa bà?

Bà Đào Thị Thùy Dung : FIRST được hiểu là dự án đầu tiên có các can thiệp tương đối đồng bộ trên nhiều lĩnh vực, không chỉ hỗ trợ cho lĩnh vực công lập, lần đầu tiên nguồn vốn Chính phủ được sử dụng để hỗ trợ các đề xuất ĐMST có sự tham gia của lĩnh vực tư nhân thông qua hình thức hỗ trợ có đối ứng, trong đó các đơn vị được chủ động hoạt động và chịu trách nhiệm giải trình. Nhóm hợp tác có thể nói là điểm đột phá trong thiết kế dự án và là mô hình thí điểm mang lại nhiều tranh luận. Chúng tôi đánh giá rất cao sự chỉ đạo quyết liệt và kịp thời cũng như sự linh hoạt của lãnh đạo Bộ KHCN trong việc thực hiện các mô hình mới, khắc phục các khó khăn và đưa dự án đến đích.

Lưu Hải Âu (44 tuổi), Bắc Ninh: Có thể nói, ĐMST thông qua nghiên cứu KHCN đóng vai trò quyết định sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Theo ông ngoài việc tăng cường thực hiện các dự án đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu, KHCN, chúng ta cần làm gì để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN, đặc biệt là ở khối doanh nghiệp tư nhân?

Ông Hồ Viết Cầm: Đứng trước cơ hội và thách thức của Cuộc cách mạng 4.0, để sánh vai và không tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi mô hình ĐMST về KHCN là cần thiết và cấp bách. Điều đó đòi hỏi những người chủ doanh nghiệp phải dám nghĩ, dám làm, phải có khát vọng và đam mê cháy bỏng để hoà nhập và đưa đất nước vượt qua những thử thách, khó khăn. Chính phủ tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy doanh nghiệp sáng tạo đổi mới.

Nguyễn Trung Nghĩa (22 tuổi), Nam Định: Một trong những chính sách được Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN đưa ra thí điểm đó là thu hút các chuyên gia giỏi, đặc biệt là người Việt Nam ở nước ngoài. Ông đánh giá thế nào về vai trò của việc thu hút các chuyên gia giỏi để hỗ trợ các tổ chức KHCN trong nước nâng cao năng lực nghiên cứu, thương mại hóa kết quả nghiên cứu? Ông có thể chia sẻ một vài ví dụ điển hình mà FIRST đã đạt được?

Ông Lương Văn Thắng : Về vai trò thu hút chuyên gia:

Thứ nhất, trực tiếp giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả các vấn đề gây cấn, nút thắt về công nghệ cụ thể mà các tổ chức KHCN trong nước đã và đang phải tập trung tháo gỡ, giải quyết để tiếp tục phát triển trong nghiên cứu và ứng dụng.

Thứ hai, chia sẻ kinh nghiệm tổ chức triển khai các nhiệm vụ KHCN cụ thể, liên kết hoạt động nghiên cứu của các tổ chức KHCN với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu thông qua sự cộng sinh giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp để thúc đẩy ĐMST tại các doanh nghiệp.

Thứ ba, cập nhật, chuyển giao tri thức mới về các thành tựu có tính đột phá, xu thế, triển vọng phát triển của các lĩnh vực KHCN chuyên sâu, từ đó giúp đội ngũ cán bộ KHCN trong nước nhanh chóng nắm bắt, tiếp cận và có định hướng phù hợp với xu thế phát triển của KHCN thế giới và khả thi hơn đới với điều kiện thực tế của Việt Nam.

Thứ tư, góp phần hình thành và phát triển các nhóm hoặc tập thể nghiên cứu mạnh thông qua các hoạt động cùng nghiên cứu, đào tạo, tập huấn chuyên sâu về công nghệ tại Việt Nam và tại các phòng thí nghiệm hiện đại ở nước ngoài, nơi các chuyên gia giỏi nước ngoài đã, đang làm việc.

Thứ năm, kết nối, hình thành và phát triển mạng lưới, cộng đồng các nhà khoa học trong nước và quốc tế có cùng chuyên môn sâu, năng lực, kinh nghiệm phù hợp và có tình cảm, mong muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển.

Có thể kể một vải tiểu dự án có tính điển hình như sau:

Tiểu dự án “Tiếp thu và làm chủ công nghệ dự báo bão hạn mùa bằng mô hình động lực, phục vụ công tác bảo đảm an toàn cho các hoạt động kinh tế - xã hội và an ninh trên khu vực Biển Đông - Việt Nam” do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện với sự hỗ trợ trực tiếp của 05 chuyên gia giỏi của Úc, từ CSIRO trong đó có 01 chuyên gia kiều bào. Thông qua tiểu dự án này, 7 nhà khoa học Việt Nam được đào tạo chuyên sâu tại phòng thí nghiệm hiện đại của Úc, làm chủ hệ thống tính toán hiệu năng cao và hệ thống lưu trữ dữ liệu phụ vụ việc thử nghiệm hệ thống mô hình dự báo (HTNV – DBBHM); Hệ thống mô hình dự báo bão theo mùa đã được xây dựng và đưa vào hoạt động. Với việc thực hiện thành công tiểu dự án này, trong thời gian chưa đầy 2 năm, Việt Nam đã thực sự tiếp thu và làm chủ công nghệ dự báo bão hạn mùa bằng mô hình động lực, phục vụ công tác bảo đảm an toàn cho các hoạt động kinh tế - xã hội và an ninh trên khu vực Biển Đông - Việt Nam. Các cơn bảo ở Biển đông từ nay có thể được dự báo tương đối chính xác trước từ 6 đến 9 tháng, góp phần chủ động phòng ngừa và bảo đảm an toàn hơn cho các hoạt động kinh tế - xã hội và an ninh trên khu vực Biển Đông - Việt Nam.

Tiểu dự án “Nghiên cứu và PT công nghệ chế tạo vật liệu có độ dẫn nhiệt cao chứa thành phần cacbon cấu trúc Nano và ứng dụng trong tản nhiệt cho linh kiện điện tử công suất lớn” do Viện Khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực hiện với sự hỗ trợ của 01 chuyên gia giỏi người Việt Nam ở Hoa Kỳ. Tiểu dự án đã tiếp thu và làm chủ 04 quy trình công nghệ mới (quy trình công nghệ chế tạo vật liệu kem tản nhiệt, quy trình chế tạo vật liệu kem có độ dẫn nhiệt cao chứa thành phần cácbon cấu trúc nanô); 03 đơn đăng ký sáng chế hợp lệ, trong đó 01 bằng sáng chế độc quyền đã được cấp; đã có 06 công bố khoa học, trong đó 04 công bố quốc tế và 02 công bố trên tạp chí chuyên ngành trong nước. Tiểu dự án đã ký kết được thỏa thuận hợp tác chuyển giao công nghệ với 01 doanh nghiệp để sản xuất đèn LED công suất cao (sử dụng chất lỏng và kem tản nhiệt) cho thị trường Việt Nam.

Tiểu dự án “Kỹ thuật thiết kế vi mạch số công suất thấp, công nghệ và ứng dụng” do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh thực hiện với sự hỗ trợ của các chuyên gia giỏi Nhật Bản trong đo có chuyên gia giỏi người Việt Nam ở Nhật Bản. Tiểu dự án đã làm chủ 02 quy trình công nghệ và phương pháp kiểm tra, cụ thể gồm quy trình công nghệ thiết kế vi mạch số công suất thấp, phương pháp đo và kiểm tra chip công suất thấp công nghệ 65nm; chế tạo thành công 02 sản phẩm mới là bo mạch test chip và chip công nghệ SOTB 65nm. Đào tạo hơn 50 tại Nhật Bản về kỹ thuật thiết kế và ứng dụng vi mạch công suất thấp.

Lương Lê Trân (33 tuổi), Đồng Nai: Ông đánh giá như nào về vai trò của việc thu hút các chuyên gia giỏi nước ngoài về hỗ trợ các tổ chức trong nước nâng cao năng lực nghiên cứu và việc thí điểm các chính sách đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN của Ngân hàng Thế giới và Bộ KHCN thông qua Dự án FIRST?

TS. Bùi Hùng Thắng: Việc thu hút các chuyên gia giỏi nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng để hỗ trợ các tổ chức trong nước nâng cao năng lực nghiên cứu. Bởi vì đôi khi chỉ cần những trao đổi nhỏ, có một ý tưởng mới, hay có được kinh nghiệm mấu trốt nào đó cũng có thể tạo ra được những kết quả sáng tạo trong KHCN. Vì KHCN đòi hỏi những ý tưởng mới và sự đột phá, do vậy tập thể cán bộ nghiên cứu trong nước khi được sự hỗ trợ của các chuyên gia giỏi nước ngoài sẽ có thêm điều kiện và chất xúc tác để tạo ra được nhiều ý tưởng mới và sáng tạo, từ đó tạo ra được thành công nhiều hơn trong hoạt động nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ.

Phạm Nhật (33 tuổi), Ninh Bình: Sau khi kết thúc tiểu dự án, đơn vị có kế hoạch chuyển giao và phát triển các sản phẩm như thế nào, thưa ông?

Ông Bùi Hùng Thắng: Sau khi kết thúc tiểu dự án, vào ngày 01.11.2019 đơn vị chúng tôi đã tiến hành ký kết ứng dụng công nghệ tản nhiệt nano chứa thành phần Graphene với Công ty TNHH Công nghệ và Xúc tiến Thương mại HALEDCO để ứng dụng vào một số sản phẩm đèn LED của doanh nghiệp.

Nguyễn Đăng Quang (25 tuổi), Hà Nội: Hiện nay Viện cũng như Trung tâm đã và sẽ có những giải pháp gì để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN, thưa ông?

TS. Bùi Hùng Thắng : Đơn vị chúng tôi hiện nay đang có những giải pháp để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KHCN như sau:

Thứ nhất, tăng cường và hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm, trang thiết bị cho các nhóm nghiên cứu đang triển khai các nhiệm vụ KHCN có tính ĐMST.

Thứ hai, tài trợ các đề tài của Viện trên cơ sở góp phần hình thành kết quả nghiên cứu có tính mới, tính sáng tạo và hình thành được đăng ký sở hữu trí tuệ.

Thứ ba, sẵng sàng bố trí diện tích tại Khu sản xuất thử nghiệm cho hoạt động ươm tạo, sản xuất thử nghiệm để hình thành các sản phẩm KHCN mới và tiến đến việc thương mại hóa các sản phẩm đó.

Thứ tư, hỗ trợ kinh nghiệm, cung cấp các thông tin và tạo điều kiện để đẩy mạnh các hoạt động về đăng ký sở hữu trí tuệ.

Thứ năm, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong việc kết hợp với doanh nghiệp để ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào trong thực tế.

Nguyễn Ngọc Hà (44 tuổi), Nam Định: Dự án FIRST sẽ kết thúc trong năm nay, với vai trò là đồng Chủ nhiệm Dự án FIRST của Ngân hàng Thế giới, theo bà chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm gì trong đầu tư cho ĐMST thông qua nghiên cứu KHCN sau khi kết thúc Dự án FIRST, đặc biệt trong việc lan tỏa các chính sách đã được thí điểm?

Bà Đào Thị Thùy Dung: Chúng tôi đang có các ghi chép ghi lại các bài học của FIRST và sẽ có kế hoạch chia sẻ rộng rãi. Rất hy vọng các kết quả của dự án FIRST được duy trì: các mối quan hệ đối tác giữa các nhóm nghiên cứu trong nước và nước ngoài, các mô hình hợp tác giữa viện trường với các doạnh nghiệp để KHCN gần hơn với đời sống, các mô hình thí điểm trong dự án FIRST có thể được tiếp tục và nhân rộng trở thành cơ sở để các chính sách phát triển KHCN và ĐMST được hình thành.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Giao lưu trực tuyến “Thí điểm cơ chế, chính sách đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ”
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO