Quy mô đại học tăng nhưng sau đại học lại giảm
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, quy mô đào tạo đại học tăng trung bình 4,4% trong giai đoạn 2013-2022. Điều này đã góp phần tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi 18 đến 22 được tiếp thu GDĐH từ 25,2% (năm 2013) lên 35,4% (năm 2021).
Số sinh viên nhập học trình độ đại học có chiều hướng gia tăng từ năm 2013 đến năm 2015, sau đó có chiều hướng giảm đến năm 2019, từ năm 2020 đến nay có chiều hướng tăng mạnh.
Tuy nhiên, trong cả giai đoạn 10 năm qua, tỷ lệ tăng bình quân là 6,1%. Năm học 2021-2022 đạt khoảng 2,1 triệu sinh viên, số sinh viên nhập học mới theo tất cả các hình thức đào tạo năm 2022 xấp xỉ 570 ngàn sinh viên.
Quy mô đào tạo sau đại học có xu hướng giảm. Số học viên nhập học trình độ thạc sĩ có chiều hướng gia tăng từ năm 2013 đến năm 2019, từ năm 2020 đến nay có chiều hướng giảm. Xét trong cả giai đoạn 10 năm qua thì tỷ lệ giảm bình quân là 1,3%.
Số nghiên cứu sinh có chiều hướng gia tăng từ năm 2013 đến năm 2019, từ năm 2020 đến nay có chiều hướng thuyên giảm mạnh, nhất là năm 2020. Tỷ lệ giảm bình quân trong cả giai đoạn là 5 %.
Quy mô đào tạo sau đại học năm 2021 chỉ đạt xấp xỉ 122 ngàn (110 ngàn học viên thạc sĩ và 12 ngàn nghiên cứu sinh tiến sĩ), tính tỉ lệ trên dân số chưa bằng 1/3 so với Malaysia và Thailand và 1/2 so với Singapore và Phillipines, xấp xỉ 1/9 lần so với mức trung bình của các nước OECD.
So với tổng quy mô đào tạo của 3 trình độ cấp văn bằng GDĐH (cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ và các văn bằng trình độ tương đương), quy mô đào tạo trình độ thạc sĩ chiếm tỉ trọng xấp xỉ 5,0%, ở trình độ tiến sĩ chưa đạt 0,6%, trong khi các tỉ trọng đó ở Malaysia lần lượt là 10,9% và 7,0%, ở Singapore là 9,5% và 2,2%, tính bình quân các nước có thu nhập trung bình lần lượt là 10,7% và 1,3%, tính bình quân các nước OECD lần lượt là 22,0% và 4,0%.
Số lượng công bố quốc tế tăng cao
Theo Bộ GD-ĐT, số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Scopus (đã bao gồm ISI) của Việt Nam tăng mạnh trong những năm gần đây: năm 2018 là 8.783 bài, năm 2019 là 12.566 bài, và năm 2020 khoảng 20.000 bài; trong đó, xét theo 6 lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm phục vụ phát triển CNC, chiếm tỷ trọng lớn là lĩnh vực Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật với khoảng 4.000 công bố Scopus/lĩnh vực/năm.
Đồng thời, đây cũng là các lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng bài báo nhanh chóng. Lĩnh vực Toán và thống kê thường đóng góp 2.000 công bố mỗi năm, mỗi lĩnh vực khoa học máy tính và khoa học sự sống đóng góp khoảng 900-1.4000 công bố Scopus/ năm. Kết quả này có phần đóng góp to lớn từ các cơ sở GDĐH (khoảng 94 - 95% số công bố từ các cơ sở GDĐH).
Bộ GD-ĐT nhận định, trong những năm qua, đội ngũ nhân lực KHCN của nước ta đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2019, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển của Việt Nam tăng mạnh, từ 167.746 lên 185.436 người, tỷ lệ tăng đạt 10,5%.
Trong đó, số lượng nhân lực nghiên cứu và phát triển hoạt động trong các cơ sở giáo dục đại học tăng từ 77.841 người (năm 2015) lên 88.481 người (năm 2017) và 96.400 người (năm 2019), đồng thời luôn chiếm tỷ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác 46,40% (năm 2015), 51,24% (năm 2017) và 51,99 % (năm 2019) .
Trong thời gian vừa qua, Bộ GDĐT đã có quy định bắt buộc đối với các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ về sản phẩm đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ khi thực hiện các nhiệm vụ KHCN cấp Bộ. Đóng góp về hỗ trợ đào tạo với số lượng thạc sĩ và tiến sĩ từ các nhiệm vụ KHCN của các cơ sở GDĐH trực thuộc Bộ GDĐT chiếm khoảng 15% (đào tạo thạc sĩ) và 10% (đào tạo tiến sĩ) so với cả nước.
Đặc biệt, số cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ hoạt động trong các cơ sở GDĐH được công nhận đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư cũng chiếm tỷ lệ cao nhất so với cả nước.
Nếu như năm học 2010-2011 số lượng giáo sư, phó giáo sư trong các cơ sở GDĐT là 2.400 người thì đến năm học 2019-2020 con số này là 4.856 người, tăng trung bình 8,16%/năm (giai đoạn 2006-2020).
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong sinh viên
Bộ GD-ĐT cho rằng, nghiên cứu khoa học góp phần phát hiện và bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển tiềm lực KHCN của đất nước: Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong các trường đại học là chủ trương và quyết định đúng đắn, mang tính chiến lược trong vấn đề phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng tài năng trẻ. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, sinh viên được làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng học tập và có cơ hội vận dụng những kiến thức đã được trang bị để thực hiện các ý tưởng khoa học ngay còn khi còn học tập tại nhà trường, tạo cơ hội cho sinh viên khởi nghiệp.
Giai đoạn 2011-2016, giải thưởng sinh viên NCKH được tổ chức đã thu hút được 3.740 sinh viên tham gia với 1.188 đề tài đến từ 422 lượt đơn vị tham gia. Tổng số giải thưởng được trao cho sinh viên là 1061 giải, trong đó 52 giải nhất, 147 giải nhì, 336 giải 3 và 526 giải khuyến khích.
Một số cơ sở đào tạo thu hút, tập trung đào tạo một số chương trình đào tạo tiên tiến, chất lượng cao, đào tạo cử nhân tài năng. Các cơ sở đào tạo có nhiều chuyển biến, đổi mới đột phá mạnh mẽ trong phát triển, cập nhật chương trình đào tạo, phương pháp dạy và học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên giỏi, dần phát triển thành các nhà khoa học có uy tín…
Các chính sách đã và đang triển khai (các Đề án 911, 89…) góp phần không nhỏ trong nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo.