Những con số ấn tượng về Tự chủ đại học

- Chủ Nhật, 16/10/2022, 14:12 - Chia sẻ

Trong quá trình triển khai tự chủ đại học từ năm 2015 – 2021 tại Việt Nam đã đạt nhiều thành tích ấn tượng trong các cơ sở giáo dục đại học.

Chủ trương tự chủ đại học là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng: Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 Khóa XI (Nghị quyết 29) yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế với những định hướng, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể trong từng lĩnh vực. Chủ trương tự chủ được khẳng định tại Nghị quyết: “Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường”.

Trên cơ sở Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 09/8/2012, Nghị quyết 29, Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017.

Kế thừa các quy định đã phát huy hiệu quả, thực tiễn triển khai Nghị quyết số 77/NQ- CP, Quốc hội ban hành Luật số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số 34). Luật số 34 là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy các cơ sở GDĐH trong cả nước thực hiện quyền tự chủ sâu và rộng hơn nữa. Đồng thời, quyền tự chủ của cơ sở GDĐH phải gắn liền với trách nhiệm giải trình để các bên liên quan và xã hội giám sát.

Thi hành Luật số 34, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.

Trong quá trình triển khai tự chủ đại học từ 2015 – 2021 đã đạt nhiều thành tích trong các cơ sở giáo dục đại học với những con số ấn tượng sau đây theo Báo cáo của Bộ GD-ĐT: 

141/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ

Hiện nay, cả nước có tổng cộng 141/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật Giáo dục đại học. Các trường chưa đủ điều kiện tự chủ với  lý do: Chưa công nhận đạt chuẩn chất lượng cơ sở giáo dục đại học chiếm 18,53%, chưa thành lập hội đồng trường chiếm 7,5%, và chưa ban hành đầy đủ các văn bản, quy chế theo quy định và chưa đáp ứng các yêu cầu khác (như chưa chuyển đổi mô hình tổ chức từ dân lập sang trường tư thục).

Những con số ấn tượng trong quá trình triển khai tự chủ đại học -0
Cơ sở giáo dục đáp ứng đủ điều kiện thực hiện quyền tự chủ theo khoản 2 Điều 32 Luật Giáo dục đại học

154/170 cơ sở Giáo dục đại học công lập đã thành lập Hội đồng trường 

Đến nay, cả nước có 154/170 cơ sở Giáo dục đại học (GDĐH) công lập đã thành lập Hội đồng trường (HĐT) theo Luật số 34 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP (đạt tỷ lệ 90,6%); trong đó, có 36/36 cơ sở GDĐH  công lập trực thuộc Bộ GDĐT đã thành lập HĐT.

Việc thành lập HĐT tại các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương đạt tỷ lệ 91,18%; trong đó, 15 cơ sở GDĐH công lập thuộc các bộ, ngành, địa phương đang xây dựng và trình cấp có thẩm quyền công nhận HĐT.

Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng 31%

Trong thời gian gần đây, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tại các cơ sở GDĐH ngày một tăng thêm (tăng từ 25% năm  2018 lên trên 31% năm 2021).

Tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư và phó giáo sư cũng tăng dần đều hằng năm (tỷ lệ giáo sư tăng thêm 0,5%/năm; phó giáo sư tăng thêm 5-6%/năm).

Tỷ lệ trợ giảng có trình độ đại học giảm mạnh (giảm trên 50% từ 2016 đến 2021).

Những con số ấn tượng trong quá trình triển khai tự chủ đại học  -0
Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng 31%

32,76% trường đại học đã tự bảo đảm chi thường xuyên

Về mức độ tự chủ tài chính, đến thời điểm hiện tại: 32,76% trường đại học đã tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (nhóm 1), 13,79% số lượng trường đã tự bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 2). Số trường chưa bảo đảm chi thường xuyên nhưng có kế hoạch trong thời gian sắp tới chiếm khoảng 16,38%.

Những con số ấn tượng trong quá trình triển khai tự chủ đại học -0
Mức độ thực hiện tự chủ tài chính (theo kết quả 232 cơ sở GDĐH trả lời
phiếu khảo sát của Bộ GDĐT)

Tỷ lệ các trường hiện đang được ngân sách nhà nước (NSNN) bảo đảm chi thường xuyên và chưa có kế hoạch khác là rất thấp (chiếm 3,45%).

Chi Ngân sách Nhà nước cho Giáo dục đại học chỉ đạt từ 4,33%

Theo quy định tại Nghị quyết 29, Ngân sách Nhà nước (NSNN) chi cho lĩnh vực GDĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách. Chi NSNN cho lĩnh vực GDĐT gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.

Trên cơ sở tổng hợp số liệu trên hệ thống Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính, trong 3 năm gần đây, tỷ lệ chi NSNN cho tuy giáo dục đã đạt và vượt mức tối thiểu 20% tổng chi NSNN, tuy nhiên số liệu về chi NSNN cho GDĐH còn hạn chế chỉ đạt từ 4,33% đến 4,74% tổng chi ngân sách cho lĩnh vực GDĐT, nếu so với tổng chi NSNN chỉ chiếm xấp xỉ khoảng 1% (từ 0,9% đến 0,96%).

So sánh tỉ trọng chi NSNN cho GDĐH của Việt Nam/GDP giai đoạn 2018-2020 cho thấy tỷ trọng chi NSNN cho GDĐH của Việt Nam tăng từ 0,25% lên 0,27% GDP, tương ứng từ 13.634 tỷ đồng lên 16.703 tỷ đồng).

Thu nhập giảng viên tăng trung bình 26,1%

Thu nhập bình quân của giảng viên và cán bộ quản lý tăng mạnh: Tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý.

Đối với 23 trường tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, trong giai đoạn 2018-2021, thu nhập giảng viên tăng trung bình 26,1%; thu nhập cán bộ quản lý tăng trung bình 24,5%.

Năm 2018 tỷ lệ giảng viên thu nhập dưới 100 triệu/năm chiếm 26,2% trong khi năm 2021 chỉ còn 12,7%; tỷ lệ giảng viên thu nhập dưới 150 triệu/năm 2018 là 57,5% và chỉ còn 46,3% năm 2021. Giảng viên có thu nhập trên 200 triệu/năm tăng từ 19,4% lên 31,34%; thu nhập trên 300 triệu trở lên tăng từ 0,75% lên 5,97% sau 3 năm thực hiện tự chủ (2018-2021). 

Những con số ấn tượng trong quá trình triển khai tự chủ đại học  -0
Thu nhập trung bình của giảng viên/năm từ trên 60 triệu tới trên 400 triệu của 134 cơ sở GDĐH tham gia khảo sát, tương quan giữa năm 2018 và 2021 (Nguồn Bộ GD-ĐT)

Tốp 5 trường đại học có tổng thu trên 1 nghìn tỷ/năm

Trong tốp 5 trường đại học có tổng thu trên 1 nghìn tỷ/năm có 2 trường đại học tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP và 03 trường tư thục tự chủ gồm: 

Trong tốp 5 trường đại học có tổng thu trên 1 nghìn tỷ/năm có 2 trường đại học tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP và 03 trường tư thục tự chủ gồm: Trường ĐH FPT; Trường ĐH Bách khoa Hà Nội; Trường ĐH Văn Lang; Trường ĐH Kinh tế TP. HCM và Trường ĐH Công nghệ TP. HCM.

Trong tốp 10 trường tham gia khảo sát có tổng thu cao nhất, có 05 trường đại học thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, 01 trường đại học công lập tự chủ (Trường ĐH Bách khoa - ĐH Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) và 04 trường đại học tư thục. Có 14 trường trong danh sách các trường thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP trong danh sách 30 trường có tổng thu cao nhất năm 2021. 

Tỷ lệ tuyển sinh tăng lên 97,80% 

Đối với tuyển sinh đại học chính quy, chỉ tiêu hằng năm tăng nhẹ; tỷ lệ % đạt được tuyển sinh trong 03 năm tăng từ 83,46% tăng lên 97,80%.

Tuy nhiên, tỷ lệ tuyển sinh trình độ tiến sĩ có phần suy giảm do yêu cầu đầu vào và chuẩn đầu ra cao hơn tại Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT. 

Việt Nam có 5 đại học được xếp hạng cao trong tốp 500 thế giới

Năm 2022, Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) công bố Bảng xếp hạng các trường đại học theo lĩnh vực: Ở lĩnh vực Kỹ thuật và Công nghệ, Việt Nam có 5 đại học được xếp hạng cao trong tốp 500 thế giới, gồm Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (xếp hạng 360), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (xếp hạng 362), Đại học Quốc gia Hà Nội (xếp hạng 386), Trường Đại học Duy Tân và Trường Đại học Tôn Đức Thắng (xếp hạng 401-450).

Theo Bảng xếp hạng Times Higher Education (THE): Ở lĩnh vực Kinh doanh và kinh tế, Việt Nam có hai đại diện là Trường Đại học Tôn Đức Thắng (xếp hạng 201-250), Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (xếp hạng 601+). Lĩnh vực Khoa học Xã hội, Việt Nam có 3 đại diện là Trường Đại học Tôn Đức Thắng (xếp hạng 251-300), Đại học Quốc gia Hà Nội (xếp hạng 501-600) và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh (xếp hạng 601+).

Cả nước có 408 chương trình Liên kết đào tạo với nước ngoài đang  hoạt động

Tính đến tháng 12/2021, cả nước có 408 chương trình LKĐTVNN đang hoạt động. Trong đó, các trường tự chủ (ĐHQG, ĐH vùng, thí tiểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, theo Luật số 34) phê duyệt tổng cộng 186 chương trình LKĐTVNN, trong đó có 124 chương trình ở trình độ đại học, 58 chương trình ở trình độ thạc sĩ và 04 chương trình ở trình độ tiến sĩ.

Những con số ấn tượng trong quá trình triển khai tự chủ đại học -0
Phân loại các chương trình LKĐT với nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam theo nhóm ngành đào tạo

Số lượng bài báo quốc tế tăng 3,5 lần

Số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng thêm hơn 3,5 lần sau 4 năm, số bài báo trong danh mục SCOPUS của các cơ sở GDĐH tăng thêm hơn 4 lần.

Những con số ấn tượng trong quá trình triển khai tự chủ đại học  -0
Kết quả nghiên cứu khoa học

Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình KHCN cấp Bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ đã tăng đáng kể trong các năm qua, trung bình 25%/năm. Đối với 23 cơ sở GDĐH được thí điểm tự chủ theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, 22 cơ sở có số bài báo công bố quốc tế trên tạp chí WoS/SCOPUS tăng mạnh. Tuy nhiên, trong 23 trường tự chủ chỉ có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội có số lượng công bố trên 500 bài báo (cụ thể là 752 bài trong năm 2021).

288 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá

Tính đến ngày 30/6/2022, trong cả hệ thống có 288 cơ sở giáo dục (cơ sở GDĐH và trường cao đẳng sư phạm) hoàn thành báo cáo tự đánh giá (trong đó, 266 cơ sở giáo dục hoàn thành chu kỳ 1 và 22 cơ sở giáo dục hoàn thành chu kỳ 2); 183 cơ sở giáo dục được các tổ chức KĐCLGD trong nước đánh giá ngoài và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục (172 cơ sở GDĐH và 11 trường CĐSP); 778 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận chất lượng, trong đó 470 chương trình được công nhận theo tiêu chuẩn trong nước và 308 chương trình được công nhận theo tiêu chuẩn nước ngoài.

Cả hệ thống có 07 trường đại học được đánh giá ngoài và được công nhận theo tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục của Hội đồng cấp cao về đánh giá nghiên cứu và GDĐH Pháp (HCERES) và ASEAN University Network - Quality Assurance (AUN-QA); đồng thời, có 232 chương trình đào tạo được đánh giá và công nhận bởi tổ chức kiểm định nước ngoài.

Hồng Hạnh
#