Phát hiện sớm để giảm thiểu biến chứng
Theo các chuyên gia y tế, đái tháo đường được phân biệt đái tháo đường type 1 và type 2. Bệnh đái tháo đường type 1 (Phụ thuộc insulin do cơ thể không tiết ra insulin) xảy ra khi những rối loạn hệ miễn dịch khiến tế bào beta trong tuyến tụy bị triệt tiêu gần hết. Không có những tế bào này, tuyến tụy mất khả năng sản sinh insulin để cân bằng và chuyển hóa lượng glucose (hay còn gọi là đường huyết) trong cơ thể.
Người bệnh đái tháo đường type 2 vẫn sản sinh insulin như bình thường nhưng cơ thể lại không thể sử dụng insulin để chuyển hóa glucose thành năng lượng cho tế bào dẫn đến không hấp thụ được, gọi là kháng insulin. Tuyến tụy cố gắng sản sinh ra nhiều insulin hơn để đẩy nhanh quá trình chuyển hóa và đến một lúc nào đó sẽ bị suy giảm chức năng trầm trọng. Tỷ lệ bệnh nhân mắc đái tháo đường type 2 chiếm 90 - 95% và tỷ lệ đái tháo đường type 1 thấp hơn.
Trên thực tế cũng phát hiện nhiều trường hợp đái tháo đường thai kỳ, một dạng bệnh rất đặc biệt vì chỉ xuất hiện trong giai đoạn mang thai và sẽ biến mất sau khi sinh con. Khi mang thai, nhau thai sản sinh ra các hormone giúp thai nhi phát triển. Các loại hormone này vô hình trung ức chế tác dụng của insulin, khiến cơ thể người mẹ rơi vào tình trạng kháng insulin. Chính vì vậy, nhu cầu insulin ở phụ nữ mang thai cao hơn 2 - 3 lần so với người bình thường. Bệnh đái tháo đường xuất hiện vào khoảng tuần thứ 24 - 28 của thai kỳ…
Theo Trưởng phòng Nghiên cứu khoa học, Trưởng khoa Nội tiết - Cơ xương khớp, Bệnh viện Lão khoa Trung ương PGS.TS. Vũ Thị Thanh Huyền, tiến triển của bệnh thường âm thầm, nhiều người bệnh không có triệu chứng chỉ đi khám định kỳ mới phát hiện ra bệnh. Do đó, để chẩn đoán đái tháo đường, cần tầm soát sớm nguy cơ, nhất là đối với những trường hợp trong gia đình có bệnh nhân đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, béo phì. Nếu có những biểu hiện ăn nhiều, tiểu nhiều,… tức là đã ở giai đoạn muộn. Do đó, ngoài 40 tuổi cần tầm soát 1 năm một lần; đối với người có nguy cơ là 6 tháng/lần.
Cũng theo PGS.TS. Huyền, nếu theo tiến triển của bệnh đái tháo đường mà không kiểm soát tốt thì tổn thương biến chứng đến rất nhanh. Có thể kể tới biến chứng trên mạch máu như tai biến mạch máu não, tổn thương cơ tim, tổn thương mạch máu vi thể (bệnh thận) và nguy cơ tiến triển giai đoạn cuối là chạy thận nhân tạo, tổn thương trên mắt (mù lòa) không do chấn thương.
"Có bệnh nhân đến với chúng tôi bị bỏng toàn bộ bàn chân nhưng không có cảm giác, mới phát hiện ra đái tháo đường. Quan niệm phòng ngừa sớm là rất quan trọng đề phòng biến chứng, tổn thương mắt, não, bàn chân…" - PGS.TS. Vũ Thị Thanh Huyền nhấn mạnh.
Về phương pháp điều trị, theo các chuyên gia, tây y hiện đại vẫn dùng các thuốc nhóm sulfonyl urea, nhóm metformin; phối hợp với các thuốc thuộc nhóm ức chế alphaglucosidase… có thể dùng theo đường uống, tùy thuộc vào đường huyết. Tại Việt Nam, số người mắc bệnh cao và nguy cơ tiền đái tháo đường khi được chẩn đoán có thể được điều trị bằng thuốc uống, chỉ định tiêm hoặc kết hợp cả hai.
Xét nghiệm HbA1C - chẩn đoán bệnh đái tháo đường |
Nguy cơ biến chứng nghiêm trọng nếu mắc Covid-19
Các nghiên cứu ban đầu đã chỉ ra rằng, khoảng 25% những người đến bệnh viện mắc Covid-19 nặng kèm theo tiểu đường. Những người mắc bệnh tiểu đường có nhiều khả năng bị biến chứng nghiêm trọng và tử vong do lượng đường trong máu cao làm suy yếu hệ thống miễn dịch và làm cho người bệnh ít có khả năng chống đỡ lại nhiễm trùng.
PGS. TS. Vũ Thị Thanh Huyền nhận định, ở Việt Nam đa phần những bệnh nhân mắc Covid-19 có bệnh lý nền suy thận và đái tháo đường. Vì vậy, cần phải đề phòng bằng cách nâng cao hệ miễn dịch, kiểm soát đường máu tốt, cũng như tuân thủ các biện pháp giảm biến chứng, tránh nguy cơ. Nghĩa là vừa phòng dịch Covid-19, vừa bảo đảm quản lý bệnh đái tháo đường.
Đồng tình với ý kiến đó, theo Phó Chủ tịch Hội Y học cổ truyền Việt Nam Hồ Bá Do, trong quan niệm y học cổ truyền, "chính khí" và "tà khí" quyết định khả năng mắc bệnh và triệu chứng nặng nhẹ của bệnh. Với bệnh đái tháo đường, hệ miễn dịch đã suy giảm thì khi chính khí bị yếu sẽ khiến các tà khí (vi khuẩn, virus) dễ xâm nhập. Những người bệnh đái tháo đường có nguy cơ biến chứng mắc Covid-19, cần tuân thủ theo hướng dẫn của Bộ Y tế, hạn chế tối đa đến chỗ đông người (phải đeo khẩu trang), bởi tỷ lệ người mắc Covid-19 không triệu chứng khoảng 40 - 50%.
Bên cạnh đó, người bệnh cần duy trì chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý để bảo đảm sức khỏe, như kiểm soát đường huyết tốt bằng cách uống thuốc đều đặn; ăn đủ dinh dưỡng, nhiều rau xanh; tập thể dục đều đặn; uống nhiều nước; ngủ đủ giấc; ngưng thuốc lá, bia rượu và giữ tinh thần lạc quan, vui vẻ.