Giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Hội thảo – Triển lãm Banking Vietnam 2008 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế (IDG) phối hợp tổ chức vừa diễn ra tại Hà Nội. Một trong những vấn đề được nhấn mạnh tại sự kiện này là việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, đa dạng hoá dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng gặp nhiều khó khăn do phần lớn các ngân hàng thương mại trong nước có quy mô nhỏ.

Doanh thu của các ngân hàng thương mại trong nước chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Doanh thu từ các hoạt động khác như: Dịch vụ thanh toán điện tử, Internet-Banking, thanh toán thẻ, chuyển tiền điện tử chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Trong khi đó, các dịch vụ phái sinh này lại là thế mạnh của các ngân hàng ngoại. Thậm chí, một số ngân hàng đã ứng dụng công nghệ để đưa ra thị trường các sản phẩm phái sinh dành cho phân khúc thị trường hẹp. Đại diện của Ngân hàng Nhà nước cho rằng, sở dĩ có tình trạng này là do thực tế hiện nay là các ngân hàng thương mại trong nước thường áp dụng công nghệ để hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ, nhưng sự thiếu đồng nhất trong ứng dụng công nghệ dẫn đến việc khó kết nối dịch vụ giữa các ngân hàng, tính bảo mật về thông tin thấp, khiến cho khả năng cạnh tranh của cả hệ thống sẽ yếu, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô vốn nhỏ. Bài học về sự tách biệt của các liên minh thẻ do ứng dụng phần mềm khác nhau là thực tế cho thấy điều này.
Từ kinh nghiệm thực tế, Ngân hàng Hong Kong Thượng Hải (HSBC) cho rằng, các ngân hàng nên sử dụng thống nhất một loại công nghệ nền tảng cho toàn hệ thống. Điều này giúp các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả trong xử lý dữ liệu, chia sẻ cũng như bảo mật thông tin liên quan. Về giải pháp bảo đảm tính bảo mật cho khách hàng sử dụng các dịch vụ thẻ ATM, chuyển tiền qua mạng, Giám đốc điều hành của Công ty Công nghệ Senetas John DuBois khuyến cáo: Quá trình chuyển thông tin cá nhân từ hệ thống chính ngân hàng sang dự phòng hay từ các chi nhánh về ngân hàng mẹ còn sơ hở và dễ khai thác trái phép. Do đó, điều quan trọng là các ngân hàng phải mã hóa dữ liệu trước khi chuyển dữ liệu nhằm bảo đảm tuyệt đối an toàn trong khi chuyển giữa các hệ thống.
Chính phủ đang khuyến khích phát triển các loại hình thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó có việc thanh toán qua hệ thống thẻ ATM. Đây là cơ hội lớn cho các ngân hàng trong nước phát triển các dịch vụ thẻ. Thế nhưng, những bất cập trong sử dụng thẻ như máy ATM hết tiền, trạm ATM thường xuyên báo lỗi, lộ thông tin trong thẻ của khách hàng, cũng như sự bất tiện do chưa có liên thông giữa các thẻ... đang làm một bộ phận người tiêu dùng nản lòng.
Trong giai đoạn hiện đại hóa ngân hàng như hiện nay, rủi ro là thách thức rất lớn cho các ngân hàng trong giai đoạn bước vào hoàn thiện hạ tầng mạng E-Banking. Việc lựa chọn công nghệ mạng, công nghệ bảo mật và quy hoạch mạng thế nào để giảm thiểu mức rủi ro là vấn đề rất quan trọng. Ngân hàng Nhà nước hiện đang đẩy nhanh việc hoàn thiện 3 hệ thống thanh toán điện tử lớn là: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; Hệ thanh toán bù trừ điện tử; Hệ thống thanh toán nội bộ của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Nếu khắc phục được những hạn chế hiện nay thì việc phát triển các hệ thống này sẽ là cơ sở nền tảng để các ngân hàng thương mại tham gia tích hợp công nghệ và liên kết trong thanh toán, nâng cao hiệu quả thanh toán cũng như mở rộng các dịch vụ mới. Ngoài ra, các chuyên gia nhấn mạnh, một trong những yếu tố bảo đảm cho ứng dụng công nghệ thông tin thành công, các ngân hàng thương mại phải chú ý tới đầu tư, nâng cao chất lượng về đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin, đặc biệt là khi mạng lưới chi nhánh của nhiều ngân hàng đang được mở rộng.
DŨNG TRƯỜNG