Hủy 2 bản án, xét xử lại từ đầu
TAND Tối cao đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 12/2022/KN-DS ngày 31/3/2022 của Chánh án TAND Tối cao. Quyết định huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 490/2019/DS-PT ngày 17/10/2019 của TAND Cấp cao tại TP.HCM và bản án dân sự sơ thẩm số 11/2018/DS-ST ngày 8/5/2018 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảo (SN 1958), người đại diện theo uỷ quyền là ông Vũ Tuấn Anh (SN 1987) với bị đơn là ông Đặng Quang Đức (SN 1978), người đại diện theo uỷ quyền là bà Đặng Thanh Bình (SN 1964, cùng ngụ TP Vũng Tàu) và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Quyết định giám đốc thẩm của TAND Tối cao nhận định Toà án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa bà Thảo và ông Đức không phù hợp với thực tế khách quan nên xác định là giả mạo nhằm che dấu hợp đồng vay tài sản nhưng chưa triệt để, chặt chẽ về chứng cứ vì chưa làm rõ, đánh giá toàn diện chứng cứ để kết luận lý do tại sao bà Thảo chuyển nhượng đất cho ông Đức giá 3 tỷ đồng trong khi giá thị trường là hơn 9 tỷ đồng. Tại sao sau khi nhận chuyển nhượng đất các bên không tiến hành bàn giao đất…
Quyết định giám đốc thẩm của TAND Tối cao cho rằng cần làm rõ bản chất quan hệ vay tiền giữa bà Thảo với bà Bình hay ông Đức? Bà Thảo ký “Hợp đồng mua bán đất” ngày 10.5.2009 nhận cọc 1 tỷ đồng tiền đặt cọc với ông Đức, biên nhận ngày 15.5.2009 viết mặt sau “Hợp đồng mua bán đất” có nội dung bà Thảo nhận 2 tỷ đồng về việc “mua bán đất”. Tuy nhiên biên nhận này không ghi rõ nội dung bà Thảo nhận tiền của ai, ông Đức hay bà Bình. Mặt khác biên nhận có sự sửa chữa chữa viết và con số; kết luận giám định xác định không đủ cơ sở kết luận chữ viết phần nội biên nhận này là của bà Thảo. Bà Thảo xác định chỉ vay 1 tỷ đồng của bà Bình. Nhân chứng là ông Lê Đình Hiệp, bà Trần Thị Thu xác định chứng kiến trực tiếp về việc bà Thảo vay tiền của bà Bình.
Quyết định giám đốc thẩm của TAND Tối cao cho rằng, quan hệ vay mượn tiền mà Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định là giao dịch có thật nhưng chưa được làm rõ. Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều buộc bà Thảo phải trả cho ông Đức gần 5,7 tỷ đồng (tiền gốc 3 tỷ và gần 2,7 tỷ đồng tiền lãi) là chưa đủ căn cứ…
Do đó khi giải quyết vụ án cần thu thập chứng cứ, lấy lời khai, đối chất giữa các đương sự và nhân chứng để làm rõ quan hệ vay mượn tiền, nếu có thì việc vay mượn tiền này được thực hiện giữa bà Thảo với ông Đức hay bà Bình, số tiền vay là bao nhiêu, ai là người đưa tiền cho bà Thảo vay, thỏa thuận về tiền lãi và phương thức thanh toán thế nào?
Từ đó mới có cơ sở xác định có quan hệ vay mượn tiền hay không, trách nhiệm trả nợ của bà Thảo với bà Bình hay ông Đức, từ đó mới có căn cứ để đánh giá hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Thảo với ông Đức là thật hay giả tạo nhằm che dấu hợp đồng vay tiền.
Hai bản án đã tuyên thể hiện gì?
Theo hồ sơ, năm 2006, gia đình bà Nguyễn Thị Thảo (SN 1958) ngụ tại ấp 4, xã Bàu Lâm, ngụ huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị thu hồi đất và được bồi thường 1,6 tỷ đồng. Gia đình bà Thảo dùng số tiền này mua hơn 6.000m2 đất thuộc thửa số 26542.50.206 tờ bản đồ 50, phường 12, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AH562758 ngày 28.2.2007.
Lời khai của bà Thảo tại các bản án thể hiện, tháng 5.2009, do nợ nần, bà nhờ ông Lê Đình Hiệp (SN 1958, ngụ xã Bàu Lâm, ngụ huyện Xuyên Mộc, cũng là chủ nợ) dẫn đến nhà bà Đặng Thanh Bình (SN 1964, ngụ phường 4, TP Vũng Tàu) vay tiền. Bà Bình đồng ý cho và Thảo vay 1 tỷ đồng với lãi suất 6%, phí dịch vụ giới thiệu 10%, vay không thời hạn với điều kiện bà Thảo phải ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ để bảo đảm trả nợ.
Ngày 12.5.2009, tại nhà bà Bình, bà Thảo ký hợp đồng chuyển nhượng hơn 6.000m2 của gia đình cho ông Đặng Quang Đức (SN 1978, ngụ phường 11, TP Vũng Tàu), thời điểm ký hợp đồng không có mặt của ông Đức, chỉ có ông Hiệp, bà Bình, bà Thảo và bà Trần Thị Thu là người làm chứng.
Sau khi ký hợp đồng, bà Bình đưa cho ông Hiệp 720 triệu đồng, số tiền còn lại bà Thảo trả lãi trước 3 tháng cho bà Bình là 180 triệu đồng, phí môi giới 100 triệu đồng. Bà Thảo không nhận được khoản tiền nào.
Bà Bình còn buộc bà Thảo ký giấy vay 1 tỷ đồng và giữ GCNQSDĐ của bà Thảo. Bà Bình hứa hẹn sẽ giúp bà Thảo làm thủ tục vay tiền tại ngân hàng và khi trả đủ tiền cho bà Bình sẽ huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ bà Thảo đã ký. Sau thời gian dài không thấy bà Bình giúp làm thủ tục vay tiền tại ngân hàng, bà Thảo nhiều lần hỏi và tìm gặp bà Bình để lấy lại GCNQSDĐ thì bà Bình yêu cầu bà Thảo phải trả tiền gốc và lãi 5 tỷ đồng. Khi bà Thảo đồng ý thì bà Bình nâng lên 8 tỷ đồng. Cùng thời điểm, bà Thảo liên hệ với cơ quan quản lý đất đai mới biết GCNQSDĐ của bà đã được ông Đặng Quang Đức tách thành 9 GCNQSDĐ đứng tên ông Đức.
Tại các bản khai, ông Đặng Quang Đức và bà Đặng Thanh Bình cho rằng, ngày 10.5.2009, ông Đức ký hợp đồng mua hơn 6.000m2 của bà Nguyễn Thị Thảo với giá 3 tỷ đồng. Ông Đức đặt cọc cho bà Thảo 1 tỷ đồng có người chứng kiến là bà Trần Thị Thu. Ngày 12.5.2009, bà Thảo và ông Đức ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ tại Văn phòng công chứng Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngày 15.9.2009, bà Đặng Thanh Bình (người đại diện cho ông Đức) đã giao cho bà Thảo 2 tỷ đồng, bà Thảo viết giấy nhận tiền vào mặt phía sau của hợp đồng mua bán đất ngày 10.5.2009. Sau đó ông Đức làm thủ tục sang tên GCNQSDĐ và tách làm 9 thửa.
Sau nhiều năm gửi đơn khởi kiện, ngày 8.5.2018, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu mở phiên tòa sơ thẩm, tuyên xử, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thảo, huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Thảo và ông Đặng Quang Đức, huỷ những GCNQSDĐ đã cấp cho ông Đức. Công nhận hơn 6.000m2 đất là tài sản của bà Thảo. Những người có tài sản trên đất này phải di dời trả diện tích đất cho bà Thảo. Ông Đức cũng có nghĩa vụ giao nộp lại các GCNQSDĐ đã bị tiêu huỷ cho cơ quan Nhà nước. Phía bà Thảo có nghĩa vụ trả cho ông Đức số tiền gần 5,7 tỷ đồng.
Tại bản án phúc thẩm ngày 17.10.2019 của TAND Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, HĐXX cũng tuyên xử huỷ hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Thảo và ông Đức, huỷ các GCNQSDĐ đã cấp cho ông Đức. Công nhận diện tích hơn 6.000m2 đất là tài sản của bà Thảo. Bà Thảo có trách nhiệm đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp GCNQSDĐ đúng với vị trí, thực tế đo vẽ ngày 4.11.2015 của Văn phòng đăng ký QSDĐ TP Vũng Tàu. Bà Thảo có nghĩa vụ trả cho ông Đức số tiền gần 5,7 tỷ đồng (trong đó tiền gốc là 3 tỷ đồng và gần 2,7 tỷ đồng tiền lãi).
Sau khi bản án sơ thẩm và phúc thẩm được ban hành, ngày 31.3.2022, Chánh án TAND Tối cao đã ra Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm và được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao chấp nhận.
Hơn 7 năm ròng rã, nhiều người điêu đứng, gian truân trong vòng xoáy kiện cáo thì vụ án nay lại trở về điểm ban đầu từ cấp tòa sơ thẩm.
* Báo điện tử Đại biểu Nhân dân sẽ tiếp tục giám sát và thông tin kết quả thực thi pháp luật của các cơ quan liên quan đến bạn đọc và cử tri cả nước.