Giám sát phải chỉ ra được luật đi vào cuộc sống như thế nào ?
Nếu các cơ quan QH giám sát thì phải giám sát cả hai khía cạnh. Thứ nhất là ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, thực thi đầy đủ. Thứ hai là xem xét luật đã đi vào cuộc sống thế nào, kể cả nhận thức về pháp luật. Trong quá trình thực hiện, nếu phát hiện ra những vấn đề không phù hợp sẽ phải sửa đổi nhưng trong phạm vi nghị định, thông tư hướng dẫn để đáp ứng đúng với nhu cầu thực tiễn – PHÓ CHỦ NHIỆM ỦY BAN KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG LÊ BỘ LĨNH chia sẻ với PV Báo ĐBND khi nói về nội dung giám sát văn bản hướng dẫn liên quan đến triển khai thi hành Luật Khoa học và Công nghệ.
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Ngay trong quá trình thẩm tra Luật Khoa học và Công nghệ thì chúng tôi cũng đã yêu cầu bên cơ quan trình dự thảo luật phải soạn thảo luôn các văn bản hướng dẫn thi hành luật nhằm bảo đảm việc thực thi luật kịp thời. Luật Khoa học và Công nghệ đã có hiệu lực từ 1/1/2014 thì việc giám sát thực hiện luật sau khi được ban hành rất quan trọng. Luật ban hành xong nhưng phải có văn bản hướng dẫn và đặc biệt là tổ chức thực hiện. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đã có chương trình giám sát về việc thực thi Luật Khoa học Công nghệ theo các nội dung quy định trong luật. Trong đó, tập trung vào tổ chức KHCN; đào tạo, phát triển sử dụng nguồn lực KHCN; những vấn đề liên quan đến cơ chế tài chính đầu tư cho hoạt động KHCN và một số vấn đề khác đã được quy định trong luật. Trước hết trong năm 2014, chúng tôi tập trung giám sát ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật theo đúng yêu cầu của luật, cũng như xem xét việc triển khai tổ chức thực hiện trong thực tế.
PV:Thưa Phó chủ nhiệm, vấn đề tổ chức thực hiện và điều kiện bảo đảm cũng sẽ quyết định hiệu quả, tính khả thi và tính nghiêm minh trong thực hiện luật?
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Không chỉ là Luật Khoa học và Công nghệ, công việc quan trọng của triển khai luật nói chung ngoài việc ban hành văn bản hướng dẫn từ nghị định đến thông tư thì khâu quan trọng nhất là tổ chức thực hiện và các điều kiện bảo đảm thực hiện. Hiện nay chúng ta có tình trạng Nghị định, thông tư, văn bản hướng dẫn ra đời nhưng xuống đến cơ sở lại chưa biết, thậm chí còn cho rằng chưa ra đời.
Chúng ta mất rất nhiều công sức làm văn bản nhưng văn bản chưa thẩm thấu được đến đối tượng thực thi còn nếu đã thẩm thấu rồi phải bảo đảm điều kiện thực hiện. Ví dụ khi chúng ta nói quy định thành lập quỹ KHCN trong các doanh nghiệp, yêu cầu doanh nghiệp nhà nước lập quỹ dành tối thiểu 10% lợi nhuận trước thuế song lợi nhuận của doanh nghiệp thấp, không đủ nguồn lực để lập quỹ đó. Hoặc muốn phát triển khu công nghệ cao nhưng điều kiện hạ tầng, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được thì khó có thể thực hiện được quy định trong luật.
Nếu các cơ quan QH giám sát thì phải giám sát cả 2 khía cạnh. Một là, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, thực thi luật đầy đủ. Mặt khác là phải xem xét luật đã đi vào cuộc sống như thế nào kể cả nhận thức về pháp luật. Trong quá trình thực hiện nếu phát hiện ra những vấn đề không phù hợp sẽ phải sửa đổi nhưng trong phạm vi nghị định, thông tư hướng dẫn để đáp ứng đúng với nhu cầu thực tiễn.
PV: Có nhiều văn bản hướng dẫn mà Chính phủ phải ban hành kịp thời để thi hành Luật Khoa học và Công nghệ, đó là văn bản cụ thể nào, thưa Phó chủ nhiệm?
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Trong chương trình ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khoa học Công nghệ 2013, Chính phủ dự định ban hành Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học Công nghệ; Nghị định quy định về đầu tư, cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN; Nghị định về tổ chức hoạt động của quỹ phát triển KHCN quốc gia; Nghị định về hoạt động thông tin KHCN; Nghị định quy định về chính sách về việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KHCN; Nghị định quy định về giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng khác về KHCN; Quyết định về hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật.
PV: Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ. Theo Phó chủ nhiệm, văn bản đã kịp thời cụ thể hóa và thống nhất với các quy định của luật?
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Vừa qua, Nghị định cơ bản nhất đã được Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/1/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học và công nghệ. Nghị định này chủ yếu quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật liên quan đến việc thành lập tổ chức KHCN, văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức KHCN, đánh giá độc lập tổ chức KHCN, trình tự thủ tục xác định phê duyệt nhiệm vụ KHCN đặc biệt, Hội đồng tư vấn KHCN tổ chức chuyên gia tư vấn độc lập, kiểm tra, đánh giá trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KHCN, thẩm định kết quả thực hiện nhiệm vụ KHCN không sử dụng ngân sách nhà nước, phát triển thị trường KHCN và một số điều khoản khác của luật.
Đây là nghị định cơ bản hướng dẫn đến vấn đề chung nhất và quan trọng nhất về mặt tổ chức và các quy trình xác định thực hiện và đánh giá các nguồn lực cũng như là các biện pháp phát triển về KHCN.
Tôi cho rằng, nghị định được ban hành tương đối kịp thời. Những quy định trong nghị định này cũng rất chi tiết, cụ thể, bảo đảm tính khả thi để thực hiện những điều đã được quy định trong luật đòi hỏi Chính phủ phải hướng dẫn. Nghị định này bám sát những nội dung yêu cầu của luật.
Tuy nhiên, vẫn còn một số điều giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục hướng dẫn chi tiết. Tôi cũng rất mong rằng, trong thời gian tới Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục ban hành những thông tư liên quan để cụ thể hóa các quy định trong Nghị định.

PV: Quỹ phát triển khoa học công nghệ là một trong những điểm sửa đổi, bổ sung mới của luật. Những năm trước, có nhiều doanh nghiệp cho rằng việc hình thành và sử dụng quỹ phát triển khoa học công nghệ không khả thi và thiếu thực tế. Tình trạng này sẽ được giải quyết, thưa Phó chủ nhiệm?
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Thực ra Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000 đã quy định về việc hình thành các loại quỹ KHCN, trong đó có quỹ KHCN ở các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc hình thành cũng như hoạt động của quỹ hoạt động KHCN trong doanh nghiệp rất hạn chế. Bởi tiềm lực của các doanh nghiệp chưa cho phép để tạo dựng quỹ lớn mạnh. Ở khía cạnh khác liên quan đến cơ chế hoạt động của các quỹ này, nó làm cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc sử dụng quỹ KHCN để thực hiện nhiệm vụ về phát triển, ứng dụng công nghệ trong doanh nghiệp.
Luật Khoa học và Công nghệ lần này cũng đã có quy định tháo gỡ những vướng mắc trước đây, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp quyền chủ động cao hơn. Trước đây, doanh nghiệp muốn sử dụng nguồn vốn từ quỹ KHCN của mình thì phải xây dựng các danh mục, nhiệm vụ trình lên Sở KHCN ở địa phương, từ đó Sở tài chính ở các cơ quan tài chính mới cấp thuận cho việc sử dụng các nguồn tài chính của quỹ.
Tuy nhiên, Luật Khoa học và Công nghệ hiện nay xác định doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc sử dụng quỹ đúng mục đích của mình. Trong các quy định hướng dẫn tiếp theo về quỹ KHCN trong doanh nghiệp thì cũng được quy định theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp để có thể sử dụng nguồn tài chính từ quỹ phát triển KHCN trong các doanh nghiệp.
PV: Vậy thì doanh nghiệp sẽ được hưởng nhiều hơn, thưa Phó chủ nhiệm?
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Đương nhiên là doanh nghiệp sẽ có lợi hơn từ việc sử dụng quỹ phát triển KHCN cho việc đổi mới KHCN. Đồng thời sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc đặt hàng cho các tổ chức cá nhân và giải quyết vấn đề KHCN của chính doanh nghiệp.
PV: Qua giám sát và tham gia sửa đổi luật, theo Phó chủ nhiệm, vấn đề trích nguồn quỹ địa phương cho hoạt động KHCN nên thực hiện như thế nào để có tính khả thi?
Phó chủ nhiệm Lê Bộ Lĩnh: Hiện nay, mỗi địa phương đều có quỹ đầu tư phát triển, ngay trong quỹ đầu tư phát triển đó có thể đầu tư cho KHCN chứ không nhất thiết phải có một quỹ KHCN riêng. Nếu có quỹ KHCN riêng thì phải có cơ chế hoạt động phải rõ ràng, có nguồn lực đủ mạnh không chỉ có từ nguồn ngân sách của nhà nước, nguồn ngân sách của địa phương mà có thể huy động các nguồn lực khác để đầu tư có mục đích cho hoạt động KHCN mang tính đặc thù sát với địa phương. Đối với một số thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ chí Minh hoặc một số địa phương có nguồn thu lớn có khả năng hình thành quỹ KHCN lớn đủ mạnh, có tính khả thi còn những địa phương nguồn lực còn hạn chế, việc sử dụng chỉ mang tính khuyến khích hoặc không đủ lực để đầu tư thì nên cân nhắc.
PV: Xin cảm ơn Phó chủ nhiệm!