Dược sĩ Phạm Thị Yên – nữ trí thức kiên trung, bất khuất
Nguyễn Túc - Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Dược sĩ Phạm Thị Yên sinh ngày 8.3.1919 tại Xóm Cái - Chợ Lớn cũ, nay thuộc quận 8 thành phố Hồ Chí Minh là một dược sĩ giỏi, một nữ trí thức cách mạng kiên trung, bất khuất, một đảng viên cộng sản ưu tú, liêm khiết, quên mình vì sự nghiệp cách mạng, tấm gương sáng để thế hệ cán bộ đảng viên noi theo.
Sinh ra trong một gia đình trung lưu đông con, thuở nhỏ, bà Phạm Thị Yên học tại trường nữ sinh, nay là trường Marie Curie. Lớn lên, bà thi đậu vào trường Pétrus Ký. Thông minh, chăm học, bà luôn đứng đầu lớp và đỗ đầu cả hai kỳ thi tốt nghiệp thành chung và tú tài. Thời đó, việc một nữ sinh đỗ đầu tú tài toàn phần ban Toán là một hiện tượng lạ, hiếm thấy. Sau đó, bà ra Hà Nội thi vào trường Đại học Y dược. Tại trường đại học danh tiếng này, bà vẫn là một sinh viên nổi trội về kiến thức, học lực và được các bạn kính nể.
Bà là mẫu người phụ nữ đoan trang kiệm lời, ít nói nhưng giàu tình cảm. Thông cảm với những khó khăn, cô đơn và thiếu thốn tình cảm của các bạn sinh viên Nam Bộ xa nhà, cùng cảnh ngộ, những ngày nghỉ, bà thường xuyên tổ chức các bữa ăn “Nam bộ” để mọi người có điều kiện gặp gỡ nhau và bớt nhớ quê hương.
Cuối năm 1944, tốt nghiệp bằng dược sĩ hạng ưu, bà trở về Sài Gòn mở tiệm thuốc Tây mang tên Phạm Thị Yên tại góc đường Tổng đốc Phương (bây giờ là đường Châu Văn Liêm) và Cây Mai (nay là Võ Tánh nối dài).
Theo Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát, đồng chí Huỳnh Văn Tiểng - Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam và nhạc sĩ Lưu Hữu Phước kể lại thì những năm học ở Hà Nội, bà là một trong số rất ít nữ sinh viên tham gia hoạt động trong Tổng hội sinh viên Việt Nam do đồng chí Dương Đức Hiền làm Chủ tịch. Do hoạt động tích cực và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao nên bà được Tổng bộ Việt Minh chú ý. Đây chính là lý do để bà là một trong số những trí thức miền Nam đầu tiên được Đảng kết nạp vào thời kỳ tiền khởi nghĩa. Năm 1945, chi bộ Đảng trí thức vận đầu tiên được thành lập ở Sài Gòn, Chợ Lớn, bà được bầu làm Bí thư với tên thường gọi là chị Bẩy Yên.
Nhờ giỏi chuyên môn, tính cách khiêm nhường, lại có tài vận động, thuyết phục nên bà được anh chị em Sài Gòn tin yêu và làm theo. Trong một thời gian ngắn, chi bộ của bà đã kết nạp được 11 trí thức vào Đảng Cộng sản Đông Dương gồm các nhà giáo có tên tuổi, những kỹ sư tài năng, bác sĩ, dược sĩ có kiến thức uyên thâm. Đó là những người được lớp nhân sĩ, trí thức đầu đàn của Sài Gòn thời đó như cụ Lưu Văn Lang, ông Michel Vỹ, luật sư Trịnh Đình Thảo, luật sư Nguyễn Hữu Thọ tín nhiệm và tin tưởng, coi anh chị em trí thức vừa mới được kết nạp vào Đảng như những đại diện cho Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ.
Ngày 29.5.1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập với Cương lĩnh: “Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam Độc lập - Thống nhất - Dân chủ - Phú cường”.
Lúc này, chi bộ trí thức vận của bà Bẩy Yên được phân công vận động trí thức tham gia Hội Liên hiệp quốc dân tức Mặt trận Liên Việt. Việc đầu tiên là tìm giới thiệu một trí thức yêu nước tiêu biểu, ngoài Đảng có khả năng đoàn kết mọi người. Người mà bà giới thiệu với cấp trên và được chấp nhận là dược sĩ Phạm Hữu Hạnh - một nhân vật nổi tiếng trong ngành dược nói riêng và trong giới trí thức Sài thành nói chung thời đó. Ông đã được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Sài Gòn - Chợ Lớn. Với uy tín và đức độ của mình, được sự giúp đỡ của các đảng viên Đảng Cộng sản, Chủ tịch Liên Việt Phạm Hữu Hạnh đã thu hút được nhiều nhân sĩ, trí thức tên tuổi tham gia Mặt trận Liên Việt... Các dược sĩ Hồ Thu, Hồ Huê, Hồ Đắc Ân, Trần Kim Quang, Nguyễn Chí Nhiễu trở thành những cán bộ cốt cán, hoạt động công khai của Mặt trận Liên Việt trong các phong trào quần chúng thời đó.
Ngày 19.3.1950, bà Bẩy Yên tham gia vào lực lượng xung kích bảo vệ luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Trưởng phái đoàn liên lạc các giới đến nói chuyện với đồng bào tại trường Tôn Thọ Tường. Bị bọn cảnh sát Pháp và ma tà vây ráp, bà đã thoát khỏi vòng vây của địch nhờ nhân dân xung quanh che dấu và dẫn đường.
Sau đợt đấu tranh đó, do đã bị lộ, Xứ ủy điều bà lên chiến khu D dự lớp trung cấp chính trị tại trường Lê Văn Sĩ do đồng chí Trần Quốc Thảo - Phó Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn phụ trách. Học xong, bà được phân công cùng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam - phụ trách bệnh viện đa khoa của đặc khu. Bà và dược sĩ Hồ Thu đi sâu nghiên cứu và sản xuất thuốc điều trị, đặc biệt pha chế và cung cấp thuốc chống sốt rét.
Năm 1951, bà xây dựng gia đình với ông Trần Bửu Kiếm, Ủy viên Ủy ban hành chính - kháng chiến Nam bộ. Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, bà cùng một số anh chị em trở lại thành phố hoạt động bí mật. Năm 1956, bà được chỉ định làm Trưởng ban Trí vận Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Tuy phụ trách chung, song bà vẫn đi sâu vào giới dược sĩ, bác sĩ, vận động anh, chị em gắn bó với những hoạt động yêu nước trong lòng địch. Đầu năm 1960, khi đang học Nghị quyết 15 của Trung ương, bà được thông báo tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Khi bà bắt liên lạc để nhận nhiệm vụ mới thì bị địch bắt. Bọn biệt kích biết bà là vợ ông Trần Bửu Kiếm, chúng tra tấn rất dã man, bắt bà dẫn về nhà để bắt ông. Bà chịu đựng mọi cực hình, cương quyết không khai, kéo dài thời gian đủ để ông Kiếm trốn thoát. Không khuất phục được bà, chúng đưa bà ra tòa xét xử tù chung thân.
Qua nhiều nhà giam, cuối cùng chúng đẩy bà ra Côn Đảo. Năm 1967, thực hiện một âm mưu chính trị mới, chúng đưa bà đến ở trong một khu biệt thự tại một hòn đảo với chế độ chăm sóc đặc biệt. Nhưng vẫn không khuất phục được bà, chúng buộc phải đưa bà về Sài Gòn vào bệnh viện tư của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, cho gia đình đến thăm nom.
Vài tuần sau, địch chở bà lên biên giới Tây Ninh, cấp cho ít tiền RIA của Campuchia và nói: Bà đi thẳng thì lên Phnôm Pênh có Sứ quán của Việt Cộng, Bà rẽ tay mặt, thì vào chiến khu Việt Cộng. Tùy bà lựa chọn. Bà quyết định đến Phnôm Pênh và xuất hiện trước sự kinh ngạc tột độ của anh chị em Sứ quán. Mấy ngày sau Trung ương điện mời bà ra Hà Nội.
Cuối năm 1968, trước nguyện vọng tha thiết được trở về miền Nam chiến đấu, bà được Trung ương chấp nhận và phân công bà giúp đỡ các nhân sĩ, trí thức trong Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam ở khu giải phóng. Do làm việc quá sức trong điều kiện thiếu thốn đủ thứ, năm 1971 bà đã ra đi sau một cơn sốt rét ác tính.
Bà Phạm Thị Yên là một dược sĩ giỏi, một nữ trí thức cách mạng kiên trung, bất khuất, một đảng viên cộng sản ưu tú, liêm khiết, quên mình vì sự nghiệp cách mạng, là một người vợ hiền và là người mẹ hết lòng chăm lo cho các con. Đây cũng là tấm gương sáng để thế hệ cán bộ đảng viên hôm nay và mai sau noi theo.