Ông Phạm Thái Bình, Tổng Giám đốc Công ty CP Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đã nhấn mạnh điều này tại hội thảo "Thúc đẩy tín dụng cho ngành hàng nông sản chủ lực, đưa đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, bền vững" do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng nay, 18.11.
Cánh đồng liên kết bị “teo nhỏ” dần!
Theo ông Bình, nếu ngân hàng, các tổ chức tài chính cho doanh nghiệp lúa, gạo vay 2 tỷ USD vốn dài hạn và 2 tỷ USD vốn ngắn hạn - số tiền rất khiêm tốn so với 12 triệu tỷ đồng, tức là khoảng 500 tỷ USD, tiền nhàn rỗi đang gửi tại ngân hàng - để thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp thì mỗi năm chuỗi lúa, gạo sẽ thu về 10 tỷ USD, chưa tính tiền từ bán tín chỉ carbon.
Mô hình cánh đồng mẫu lớn triển khai từ năm 2011. Thấy đúng hướng nên Thủ tướng đã “luật hóa” thành Quyết định 62/2013 và sau đó là Nghị định 98/2018 để có cơ sở pháp lý cao hơn và có cơ chế, chính sách nhiều hơn để nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tham gia xây dựng thực hiện.
Tuy nhiên, đến cuối năm 2022, ở ngành hàng lúa, gạo chỉ còn lại 2 doanh nghiệp còn duy trì cánh đồng liên kết khá hoàn chỉnh là Công ty Trung An ở Cần Thơ và Tập đoàn Lộc Trời ở An Giang; trong khi ban đầu có rất nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tham gia. Do không tiếp cận được vốn vay để đáp ứng thanh toán cho các khâu trong chuỗi liên kết nên các cánh đồng liên kết bị “teo nhỏ” dần!
Nhận ra được nút thắt cơ bản này, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao được Thủ tướng phê duyệt ngày 27.11.2023 với mục tiêu cơ bản nhất là để ngành hàng lúa, gạo phát triển bền vững, giảm phát thải thích ứng với biến đổi khí hậu. Đồng thời, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành ngân hàng, chính quyền các địa phương vùng ĐBSCL cùng các doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân đã vào cuộc rất quyết liệt, nhất là những người đứng đầu. Chúng tôi rất phấn khởi, háo hức, kỳ vọng vào các giải pháp mới để Đề án 1 triệu ha năm 2023 không lặp lại Cánh đồng mẫu lớn năm 2010.
Để thực hiện dự án trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, doanh nghiệp cần vốn vay dài hạn (7 - 10 năm) để xây dựng và lắp đặt máy sấy lúa, lắp silo chứa lúa, xây dựng và lắp đặt (bổ sung) các hạng mục cơ giới hóa đồng bộ cung cấp dịch vụ nông nghiệp cho vùng liên kết, xay xát, chế biến, chế biến sâu, đóng gói các sản phẩm trong chuỗi lúa, gạo. Cùng với đó là vốn vay ngắn hạn để thanh toán tiền lúa tươi cho nông dân khi thu hoạch.
Sớm có giải pháp căn cơ
Cũng theo ông Bình, trong chuỗi lúa, gạo vốn để đầu tư dài hạn nêu trên, bắt buộc doanh nghiệp phải đầu tư, không đầu tư không hoạt sản xuất kinh doanh xuất khẩu gạo được. Khi không vay được vốn dài hạn mà các doanh nghiệp vẫn hoạt động được, đó là các doanh nghiệp phải “giật gấu vá vai” lấy vốn ngắn hạn chuyển qua đầu tư dài hạn. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến hầu hết các doanh nghiệp trong ngành gạo không tham gia chuỗi liên kết sản xuất gắn liền với tiêu thụ. Còn 1, 2 doanh nghiệp vẫn thực hiện liên kết là thấy liên kết đúng, đem lại hiệu quả cao cho cả nông dân và doanh nghiệp và cộng đồng xã hội và hy vọng “cơ quan quản lý” sẽ sớm có giải pháp căn cơ… nên các doanh nghiệp đó có đến đâu thì làm đến đó với quy mô hạn hẹp, cầm chừng chờ đợi.
Về vốn ngắn hạn, các ngân hàng cũng đã cho doanh nghiệp vay để thực hiện các hợp đồng mua bán và xuất khẩu gạo từ nhiều năm nay, nhưng ở dạng cho vay “phần ngọn”, chưa đầy đủ như chuỗi liên kết lúa, gạo yêu cầu phải đủ. Đây cũng chính là nguyên nhân lúa, gạo Việt Nam đứng nhất nhì thế giới nhưng giá trị luôn thấp, sản xuất và tiêu thụ luôn bấp bênh, doanh nghiệp cạnh tranh nhau “bóp bụng” hạ giá gạo xuống thấp để bán lấy tiền đáo hạn ngân hàng khi đến hạn.
Cụ thể, nếu cho vay đủ để đầu tư thực hiện 1 triệu ha lúa chất lượng cao thì cần 14.900 tỷ đồng vốn vay dài hạn để xây dựng và lắp đặt máy sấy lúa tươi; 18.200 tỷ đồng vốn vay trung và dài hạn để xây dựng và lắp đặt silo chứa lúa khô; 15.000 tỷ đồng để xây dựng và lắp đặt (bổ sung) các hạng mục: cơ giới hóa đồng bộ, xay xát, chế biến, chế biến sâu, đóng gói các sản phẩm của chuỗi lúa, gạo.
Cộng 3 khoản trung và dài hạn trên là 48.100 tỷ đồng. Số tiền ngân hàng cho vay rải ra theo tiến độ thực hiện dự án trong 7 năm chứ không phải giải ngân cho vay cùng 1 lúc. Như vậy, trung bình mỗi năm ngân hàng chỉ giải ngân khoảng 6.870 tỷ đồng.
Đối với vốn vay ngắn hạn để thanh toán tiền lúa tươi cho nông dân khi thu hoạch cần 49.000 tỷ đồng. Số này các ngân hàng cũng đã cho các doanh nghiệp vay một phần để kinh doanh xuất khẩu gạo từ nhiều năm nay rồi, nhưng đó mới chỉ là cho vay phần ngọn. Nay ngân hàng cơ cấu lại cho vay thêm đủ theo chuỗi liên kết yêu cầu như dự án của doanh nghiệp, hợp tác xã lập, để doanh nghiệp thu mua toàn bộ lúa nông dân sản xuất ra, các doanh nghiệp chủ động bán gạo khi xuất khẩu.
Như vậy sẽ chấm dứt cảnh khi vào vụ thu hoạch nông dân bị cò, thương lái ép giá, nông dân bán lúa giá thấp; và các doanh nghiệp do thiếu vốn phải tranh nhau hạ giá gạo xuống bán, để có tiền đáo hạn ngân hàng.
Tính toán từ số liệu xuất phát từ sự đầu tư thực tế của công ty cũng như một số doanh nghiệp khác từ mấy chục năm nay đã và đang đầu tư cho thấy, nếu ngân hàng, các tổ chức tài chính cho doanh nghiệp ngành hàng lúa, gạo vay 2 tỷ USD vốn dài hạn (7 - 10 năm) và 2 tỷ USD vốn ngắn hạn (dưới 12 tháng) tổng cộng là 4 tỷ USD (số tiền rất khiêm tốn so với lượng tiền nhàn rỗi của cộng đồng gửi tại ngân hàng 12 triệu tỷ đồng, tương ứng khoảng 500 tỷ USD), để thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp, mỗi năm chuỗi lúa, gạo sẽ thu về 10 tỷ USD, chưa tính tiền thu được từ bán tín chỉ carbon. Doanh nghiệp, nông dân và cộng đồng xã hội đều phát triển; tạo đà kéo theo thêm 2 triệu ha đất lúa nữa của ngành hàng lúa, gạo Việt Nam cùng phát triển bền vững, chủ động từ sản xuất đến tiêu thụ với giá trị cao.
Nếu cứ để ngành hàng lúa, gạo Việt Nam sản xuất, kinh doanh như hiện tại thì mỗi năm, Việt Nam tự đánh mất khoảng 5 tỷ USD.
Đừng để ngành hàng lúa, gạo của ĐBSCL tiếp tục mất cơ hội chỉ vì không vay được vốn để đầu tư phát triển trong khi ngân hàng thì thừa tiền. Với tình hình biến đổi khí hậu cực đoan đang diễn ra phức tạp, gạo sẽ là mặt hàng khan hiếm ngày càng trầm trọng trên toàn cầu do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu cực đoan mà khả năng phục hồi của nhiều quốc gia là không thể. Ngành hàng lúa, gạo Việt Nam có yếu tố thiên nhiên ưu đãi hơn các quốc gia khác. Đầu tư ngành hàng lúa, gạo phát triển bền vững là để luôn đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cũng chính là góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.