Dưa huyết (Phần 1)
Truyện ngắn của Nguyễn Hiệp

Chách! Chách! Hai cái tát tai liên tiếp thật mạnh làm tôi choáng váng, mắt nổ đom đóm, má tôi ôm dằn lấy đầu tôi, nhìn chăm chăm vào mặt tôi: - Con, sao dại dột dữ vậy con! Vừa nói bà vừa nắm tay tôi hối hả kéo đi. Tôi điếng người chưa kịp khóc thì bị tiếp hai cái tát nảy lửa khác, tôi đau quá chịu không nổi nữa giãy nảy lên, tôi chưa biết mình đã làm gì nên tội nên phản ứng như vậy, chợt thấy cái cách má quíu cẳng quíu giò giẫm đạp lên rẫy dưa mà bươn đi, tôi nghi là “có chuyện” gì rồi, lấm lét ngoái nhìn lại góc rẫy dưa, nơi có trái dưa thiệt to đã chín rục, da sụp xuống, nước đỏ đặc sệt tràn ra một vệt lớn, tôi run lập cập sợ hãi. Má lại ôm tôi vào lòng, nói thầm vào tai tôi: - Là dưa huyết, dưa huyết, con biết không?! Má thường nhắc tôi không được lang thang trong góc rẫy này nhưng không giải thích vì sao, bấy giờ thì tôi mang máng hiểu ra và chợt im re, thôi cả tiếng thút thít, nước mắt muốn chảy ngược vào lại trong mắt. Má nắm tay tôi đi thật nhanh, sau khi băng vào chòi rồi quay trở lại cắm trước trái dưa to như cái thúng ấy ba cây nhang và cúi lạy ba lần, má lầm rầm khấn vái điều gì đó. “Khi trái dưa chín, máu trào ra lênh láng, ai nhìn vào đó sẽ bị hớp hồn, sẽ không còn là mình nữa, máu của dưa sẽ là máu mình, thịt của dưa cũng sẽ là thịt mình”. Má nói vậy làm tôi sợ chết khiếp, tôi đưa tay rờ xoa khắp cơ thể mình để xem có gì khác lạ không và thật sự tự hứa với lòng không bao giờ dám bén mảng đến nơi cấm kỵ đó nữa, tôi không hề biết rằng mình đã nhìn vào trái dưa huyết ấy một lần, vậy là quá đủ để suốt đời tôi phải trĩu nặng nỗi đắng cay, đau đớn, dằn vặt không nguôi.
Không hiểu sao ba mươi năm qua mà góc rẫy dưa vận mạng của cuộc đời tôi vẫn không chút thay đổi nào, đó là khu rẫy dưa ở Râm Xanh, ngày ấy má tôi còn rất trẻ, tôi còn là một chú nhóc bám theo má suốt ngày, những trò bắt bướm hái hoa nghịch ngợm của tôi làm má tôi lúc nào cũng phải dõi mắt theo. Tôi nhớ mình đã uốn được thanh tre thành khung hình tam giác và vót cái cần le dẻo nhẹo, buộc thêm “con nhạy” bằng ngón tay út vào để làm bẫy sóc, tôi bẻ cành tắp luồng cẩn thận, một chú sóc sọc có chiếc đuôi cong vút bị kẹt vào, đó là thành tích ấn tượng nhất của tôi lúc ấy, nhưng nhìn con sóc chết cứng trong đớn đau tôi khóc hết nước mắt, ngày đó tôi là thằng bé thích nghịch ngợm nhưng lại hay mủi lòng. Má tôi giải thích về tâm tính thất thường của tôi gọn trong hai tiếng “dưa huyết” và có lẽ cũng để tự trấn an mình bằng hai tiếng cũng gọn không kém: “ký bán”, nguyên nhân của việc ký bán tôi chính là vì tôi đã đứng trước trái dưa huyết và còn dám nhìn vào vũng máu, má tin là tôi đã bị hớp hồn, máu của dưa huyết đã thành máu của tôi, thịt của dưa huyết đã thành thịt của tôi, vì lo lắng không giữ được sự sống của tôi, má còn xin cho tôi một sợi “niệc” với cái túi vải đỏ chứa trong đó những rễ cây cong queo kỳ lạ, mọi thứ được ếm bùa kỹ lưỡng. Má dắt tôi đến chỗ một đồng cô trẻ danh tiếng để xin ký bán tôi. Cô ấy trùm vải đỏ lên đầu tôi rồi phun lửa cháy bùng xòe bùng xòe quanh người tôi rồi đeo lên cổ tôi sợi “niệc” ấy (sau này tôi mới biết cô ta ngậm dầu lửa rồi phun ra cây hồng lạp đang cháy trước miệng). Cô ta còn dậm mạnh chân quanh người tôi ba cái và hô lớn: Aùn! Aùn! Aùn! làm hồn vía tôi bay tận chín tầng mây. “Cô ấy mạng lớn, cô ấy được ơn bề trên, chỉ cô ấy mới giữ gìn được con”, trên đường về nhà, má thì thầm vào tai tôi. Sau đó, tình cờ tôi nghe mấy người lớn trong làng thì thào vào tai nhau: “Nói trộm vía thằng nhỏ, ký bán cho chắc chứ cái vong dưa huyết là mạnh lắm”. Tôi hằng tin mình đã bị trói buộc vào một loại quy định vô hình như thế. Tôi tin số phận mình đã gắn vĩnh viễn với cô đồng tên Vi biết phun lửa và với cái miếu thờ dưa huyết mà má vừa chặt cây, cắt tranh về hì hục dựng lợp ngay trong buổi chiều mưa hôm đó. Má thường dắt tôi ra miếu lạy khấn nhang khói cho trái dưa huyết ấy, vỏ trái dưa huyết đã khô cong, méo mó, có lần khi má tôi đang sụp lạy, tôi chợt nghe tiếng động trong trái dưa, nhịp tim tôi tự dưng đập thình thịch, tôi cố gắng nhìn đi chỗ khác nhưng tia mắt tôi bị níu chặt vào cái lỗ chỗ vỏ dưa bị vỡ, thoạt đầu mấy tia mắt nhỏ trắng dã càng làm tim tôi đập nhanh hơn vì quá sợ hãi, nhưng khi nhìn thật kỹ vào trong ấy, tôi thấy vô vàn là chuột, những con chuột lớn ung dung ngồi gặm hột dưa, lúc nhúc dưới chân chúng là những đám chuột con đỏ lòm, bò đè lên nhau như giòi bọ. Tôi rùng mình, ngay lúc ấy má ấn đầu tôi xuống, má thì thầm “lạy đi con!” Tất cả những điều quy định dù mù quáng hay không đều dẫn tới bi kịch. Sau này, khi đã trưởng thành, đã nếm trải đủ mùi cay đắng, đã dệt đầy cuộc đời mình bằng những buổi chiều buồn hiu hắt, tái tê, tôi mới thấu hiểu ra được điều này dù đã quá muộn màng.
Khi tôi học lớp tám, má “đi bước nữa”, tôi chăm rẫy dưa và cái chòi rẫy ấy một mình. Má nói: - Thời buổi này, được chút hạnh phúc, một chút thôi là quý lắm con à!… Má kể tôi nghe về con đường trước nhà tôi ở ngoài làng, vào thời kỳ chiến tranh ác liệt, con đường không ngày nào là không có đám tang ngang qua, mà rặt tang đôi, tang ba, thậm chí có lần còn cả năm chiếc quan tài, hai lớn ba nhỏ, cùng di quan một lúc, đó là trận phục kích vào đêm ba mươi Tết, hai bên chẳng biết hề hấn gì không, nhưng những con người đang ngồi quanh nồi bánh chưng xanh trong căn nhà bếp đó đều đã trúng đạn, hai vợ chồng và ba con nhỏ. Đám tang ấy không còn ai ruột thịt để chịu tang cho người thân vừa nằm xuống, đám tang không có lễ phục tang. Rúng động nhất, chạm lòng người nhất là đám tang chồng dì Chín, em ruột của má: chồng dì bị bắt đi lính chết trận tận cao nguyên, vừa đưa xác về. Dì Chín nhất quyết đòi mở nắp quan tài nhìn chồng lần cuối. Khi nắp quan tài mở ra, khi chiếc khóa dây kéo trên bọc ni lon đen roẹt ra một đường, dì bàng hoàng trước thân xác chồng mình, một khối cháy đen co rúm, mặt méo xệch biến dạng, hai con mắt đã cháy mất chỉ còn hai hốc mắt đen ngòm, bị chấn động mạnh dì hóa cuồng bứt tóc bứt tai, xé quần xé áo tung hết lên trời cùng với nắm tiền tử vừa lãnh nóng từ tay những người chuyển xác, thân thể hoàn toàn trần truồng, dì loạng choạng điên dại chạy đi trong tiếng gào rú thất kinh và những đồng tiền giấy lả tả bay. Đám tang ai má cũng ngỡ như đám tang của chính mình bởi vì nó là sự mất mát chung, phải vậy hông con? Con có nghĩ được như vậy hông con? Con thương má nghe con! Con thấy không, làng mình có còn mống đàn ông nào ra hồn đâu? Ba con ra đi trong một cuộc đưa tang đôi như bao đám tang thời khốc liệt; nghĩa tử nghĩa tận, chẳng lẽ lại trách người chết ích kỷ, nhưng sự thật là họ bỏ chúng ta mà đi, bỏ rơi chúng ta, ba bỏ rơi má con mình. Má tôi khóc sướt mướt, lết người tới dụi đôi mắt đẫm ướt vào vai tôi. Tôi lúc đó thật sự chưa hiểu lắm hạnh phúc là gì, nhưng nghe má kể má khóc má năn nỉ lại thấy tội nghiệp má, mình phải chịu khó sống một mình, phải dằn, giấu nỗi buồn vào trong người để má nhẹ lòng mà đi bước nữa, để má được hạnh phúc, không còn ba, má cực khổ nuôi tôi lâu nay rồi, má “được” chút gì đó cũng là điều tôi hằng ao ước. Thật ra, lúc đầu nghe má nói “má lấy chồng” tôi đã gào thét, bỏ cơm, không nhìn mặt má, tôi phản đối dữ dội, nhưng má kể lể dỗ dành riết lòng tôi lại lần hồi nguôi ngoai. Hơn nữa, má còn nhắc tôi “có khó khăn gì thì nhờ cô Vi”, tôi nghe mà an tâm hơn trong cảnh bơ vơ sắp tới.
Mấy năm tôi ở một mình với khu rẫy dưa ấy, tuyệt không có trái dưa nào là dưa huyết nữa, tôi cứ thắc mắc mãi, mùa nào tôi cũng chăm chú nhìn kỹ từng dây dưa, từng bông dưa cái nhỏ nhắn đính những cánh hoa vàng nhạt trên đầu, đoán thử đâu là trái dưa huyết, tôi mường tượng nó sẽ lớn rất nhanh, máu sẽ ứ tràn ra cả vỏ dưa, nhưng rồi khi tom dưa lại để lấy hột, mọi trái dưa đều có độ lớn bình thường, những sợi gân sọc trên da vẫn sậm màu xanh lục, ruột dưa vẫn đỏ tươi, vẫn chạy đều hai ba hàng hột chắc nụi, không có dấu hiệu bất thường nào cả. Vậy mà nhiều đêm trước, tôi thường nằm mơ thấy trái dưa huyết to lớn mọc ra hai bàn chân, ngón cái bạnh, ngón giữa nhô, ông Dưa chuệnh choạng đi vào bộ vạt tre tôi đang nằm ngủ rồi há miệng ra, hột dưa biến thành hai hàm răng nâu đen nhe ra, từ cái miệng đó, máu đỏ tuôn trào lênh láng, những dòng máu đỏ đặc sệt từ trên đầu tôi tràn xuống qua trán, qua mắt rồi chui đầy vào mũi vào miệng tôi. Tôi nghẹt thở ú ớ, vùng vẫy, càng vùng vẫy tôi càng dính chặt vào lớp máu nhầy nhụa của trái dưa huyết và khi tưởng cả thể xác, tâm hồn đang rùng mình biến thành người khác thì tôi giật thót, bàng hoàng thức giấc với mồ hôi lạnh tuôn ướt cả người. Phải đợi mặt trời lên thật cao tôi mới dám ra rẫy dưa xem thử có trái dưa huyết nào không, nhưng trước mắt tôi chỉ những trái dưa con vừa đậu, da xanh mơn mởn chập chờn cạnh những chiếc lá hình bàn tay, khi khoe mình khi ẩn núp dưới ánh nắng chói chang được thả xuống từ trời cao, tôi quay vào chòi ngồi thừ ra mà nghĩ lẽ nào đất này không còn linh ứng, tôi nhớ lời má tôi: “Đất linh lắm mới có dưa huyết, con à”.
Năm tôi mười bảy tuổi, vẫn sống một mình trong cái ốc đảo Râm Xanh ấy. Cá sẵn dưới suối, chỉ cần chiều đó chịu khó đào trùn móc vài cần câu cắm là sáng ra cũng được vài con lóc, con trê, có bữa còn được chú lươn bụng vàng dài ngoằng, chặt khúc kho đầy một xoong. Lúa khoai thì tôi trồng tỉa được ven suối và bán hạt dưa mua trữ thêm, không nhiều nhưng cũng đủ cho tôi qua ngày. Thời còn đi học thì có khổ hơn, muốn có sách vở đèn dầu phải chịu khó đi học thật sớm, gánh theo ra chợ ít rau lang, ít nải chuối thì mới có tiền mua, nói đơn giản, đôi gánh nặng trĩu trên vai lại phải vượt qua đoạn đường rừng dài hụt hơi để đến chợ rồi quay về trường học, mà tôi không biết sang vai nên vai phải của tôi luôn “chịu trận”, sưng đỏ, đau nhức không chịu nổi sau mỗi lần tôi cần tiền phải đi ra chợ. Tôi còn nhớ hình ảnh của mình lúc đó, trông như một con vật đen đủi, hai bắp chân mốc nâu như hai củ khoai mì chỉ được cái các cơ bắp nở nang, săn chắc.
- Cưng ơi! Người cô đồng mà má tôi đã ký bán tôi ngày nào đột ngột xuất hiện trước chòi rẫy nơi tôi đang sinh sống. Tôi dựng cây cuốc trên vồng khoai lang đang vun nửa chừng, bước vào chòi, cô ta chồm người tới ôm tôi khóc rống lên.
- Má cưng…
- Má làm sao? Cô Vi, má làm sao? Tôi hốt hoảng.
- Trời ơi, tội nghiệp cưng! Má cưng qua đời rồi. Người ta mới chở từ Sài Gòn về…
Tôi không còn nghe được gì nữa cứ thế lao đi, tôi ào qua khu rừng chồi, khu cỏ lác đầy những rắn rít và gai góc.
(Số sau đăng hết)