Dự án Luật Phá sản (sửa đổi): Tạo thuận lợi để doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh
Chiều 12/9, tiếp tục Phiên họp thứ 49, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Phá sản (sửa đổi).

Khắc phục điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản
Trình bày Tờ trình dự án Luật, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao Nguyễn Văn Tiến cho biết, Luật Phá sản năm 2014 được Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ Bảy thông qua ngày 19/6/2014, đã khắc phục một số bất cập, hạn chế của Luật Phá sản năm 2004. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014 cho thấy còn nhiều điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản, nhu cầu giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã không ít nhưng kết quả giải quyết chưa nhiều, thời gian giải quyết một vụ việc phá sản kéo dài, ảnh hưởng đến kết quả thu hút đầu tư vào Việt Nam…

Xây dựng Luật Phá sản (sửa đổi) nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định còn vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tháo gỡ những điểm nghẽn trong giải quyết vụ việc phá sản; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh; tuyên bố phá sản và thanh lý kịp thời những doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng phục hồi; khơi thông nguồn lực, hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển nền kinh tế lành mạnh; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, đóng góp vào việc đưa Đất nước vững bước tiến vào “kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh”.

Cụ thể gồm: xây dựng, hoàn thiện thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã; xây dựng thủ tục phục hồi rút gọn, thủ tục phá sản rút gọn đối với doanh nghiệp, hợp tác xã; ứng dụng giao dịch điện tử trong giải quyết vụ việc phục hồi, phá sản; hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quản tài viên, doanh nghiệp, quản lý, thanh lý tài sản, người tiến hành thủ tục phục hồi, phá sản, người tham gia thủ tục phục hồi, phá sản; hoàn thiện trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc phá sản để khắc phục vướng mắc, bất cập và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho biết, hồ sơ dự án Luật đã cơ bản đáp ứng theo yêu cầu. Tuy nhiên, đề nghị cần tiếp tục hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật theo quy định, trong đó văn bản của Chính phủ phải thể hiện rõ ý kiến về việc đủ điều kiện hoặc chưa đủ điều kiện trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đồng thời rà soát, bổ sung các nội dung tại dự thảo văn bản quy định chi tiết kèm theo Hồ sơ.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính cũng cho biết, đa số Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính thống nhất với đề xuất của Cơ quan trình đối với 3 nội dung xin ý kiến, cụ thể: sửa tên của Luật là “Luật Phục hồi, phá sản”; quy định tạm ứng chi phí phá sản, nguồn chi trả chi phí phá sản do ngân sách nhà nước bảo đảm trong trường hợp không phải nộp tạm ứng chi phí phá sản hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tiền, tài sản để nộp hoặc còn tài sản nhưng không thể bán để bảo đảm chi phí phá sản; giao Tòa án đang giải quyết phá sản giải quyết toàn bộ các tranh chấp mà Tòa án, Trọng tài khác đã đình chỉ và các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản.

Bên cạnh đó, Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính đề nghị cần phải đánh giá tác động của việc dùng ngân sách nhà nước để chi trả chi phí phá sản nhằm bảo đảm tính khả thi, tránh lạm dụng chính sách gây thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước; xác định cụ thể nguồn kinh phí và trình tự, thủ tục phù hợp với quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

Khắc phục được sự chồng chéo, không thống nhất với các luật liên quan
Qua thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí cho rằng, sửa đổi Luật Phá sản là yêu cầu cấp bách; đồng thời, tán thành với nhiều nội dung được nêu trong Tờ trình và Báo cáo thẩm tra sơ bộ.
Cho ý kiến về nội dung này, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ yêu cầu, sửa đổi Luật Phá sản lần này cần bảo đảm phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; khắc phục được sự chồng chéo, không thống nhất giữa Luật Phá sản năm 2014 với các luật khác có liên quan.

Theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật, có khoảng 12 luật liên quan đến Luật Phá sản, như: Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ Luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Thi hành án dân sự…
Nhấn mạnh lại phương châm sửa đổi Luật là “tắc đâu, thông đó”, “khó đâu tháo đó” để tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển, Chủ tịch Quốc hội yêu cầu việc sửa đổi luật lần này phải khắc phục các tồn tại, hạn chế trong thi hành Luật Phá sản năm 2014 như: quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; quy định về thủ tục rút gọn để phục hồi, phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có tính chất đặc thù, quy mô nhỏ; quy định về giải quyết vụ việc phá sản trong môi trường điện tử thì cái này là môi trường điện tử; quy định về tạm ứng chi phí phá sản, xử lý tài sản, giải quyết tranh chấp có liên quan của doanh nghiệp…

Về tên gọi dự án Luật, Chủ tịch Quốc hội thống nhất đề xuất của Tòa án Nhân dân tối cao là “Luật Phục hồi, phá sản” thay cho Luật Phá sản. Tuy nhiên, cần có phương án sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có dẫn chiếu đến Luật Phá sản, pháp luật về phá sản để bảo đảm thống nhất.
Về phạm vi điều chỉnh, Chủ tịch Quốc hội tán thành với việc sửa đổi, bổ sung theo hướng: xây dựng, hoàn thiện thủ tục giải quyết vụ việc phục hồi là thủ tục độc lập được thực hiện trước thủ tục phá sản nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp, hợp tác xã có nguy cơ mất khả năng thanh toán có cơ hội cơ cấu lại, duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh.

Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý, hiện tại một số luật chuyên ngành cũng có quy định về thủ tục giải quyết vụ việc phục hồi như Luật Các tổ chức tín dụng; Luật Kinh doanh bảo hiểm…; do đó, cần rà soát quy định của dự thảo Luật với các luật có quy định liên quan đến nội dung này, tránh mâu thuẫn, chồng chéo.
Cũng tán thành với đề xuất đổi tên Luật, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đề nghị nghiên cứu thêm phương án thay dấu phẩy bằng chữ “và” để dự án Luật có tên là “Luật Phục hồi và phá sản”, vừa bảo đảm ngắn gọn, rõ ràng, bao quát đầy đủ phạm vi điều chỉnh.
Về chính sách của Nhà nước đối với phục hồi và phá sản, Điều 4 dự thảo Luật quy định Nhà nước có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình phục hồi, phá sản. Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh, quy định này là cần thiết, song, để bảo đảm tính khả thi, dự thảo Luật không nên chỉ quy định nguyên tắc chung mà cũng cần xác định rõ một số nhóm chính sách mang tính chất khung. Chẳng hạn như: nhóm khung chính sách về thuế như giãn, hoãn, giảm thuế trong thời gian phục hồi; nhóm khung chính sách về tín dụng như khoanh nợ, cơ chế tái cấp vốn; nhóm khung chính sách về tư vấn pháp lý, kế toán, quản trị doanh nghiệp…; đồng thời, giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết để giúp chính sách đi vào cuộc sống và hỗ trợ đúng đối tượng, phù hợp với khả năng ngân sách của từng thời kỳ.

Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra tiếp tục phối hợp, rà soát các nội dung của dự thảo Luật, bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và định hướng đổi mới công tác xây dựng pháp luật nhằm khơi thông mọi nguồn lực để phát triển, khắc phục chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật, khắc phục các yếu kém trong tổ chức thực hiện pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát các quy định của Luật Phá sản hiện hành đã được bổ sung hoặc bãi bỏ tại dự thảo Luật, đề xuất nội dung cần quy định chuyển tiếp nhằm bảo đảm đầy đủ, tránh bỏ sót, tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong triển khai thực hiện khi Luật có hiệu lực; đồng thời, rà soát, bổ sung các nội dung được giao tại dự thảo Luật để bảo đảm các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành được ban hành đầy đủ và có hiệu lực cùng thời điểm với quy định của Luật.