Hơn 5 năm chưa tính được tiền sử dụng đất
Theo tài liệu, Khu đất thuộc Dự án Khu dân cư An Phước, diện tích 11.335,4m2 tại xã An Phước, huyện Long Thành có nguồn gốc do bà Nguyễn Thị Phương Tâm đứng tên. Bà Tâm đã góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) vào Công ty Cổ phần Bất động sản Đại Thành Công Bình Thuận (Công ty Đại Thành Công) để thực hiện dự án theo quy định của pháp luật.
Ngày 4.9.2018, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định chủ trương đầu tư số 3130/QĐ-UBND, chấp thuận cho Công ty Đại Thành Công thực hiện đầu tư Dự án Khu dân cư An Phước tại khu đất trên.
Theo Quyết định này, đến tháng 12.2019 dự án phải hoàn thành các thủ tục về đầu tư, đất đai, xây dựng và thi công các hạ tầng cơ bản; Đến tháng 7.2020 hoàn thiện dự án đi vào kinh doanh.
Ngày 8.10.2018, Sở Xây dựng tỉnh Đồng Nai đã cấp Giấy phép quy hoạch số 30/GPQH cho dự án. UBND tỉnh Đồng Nai đã ban hành Quyết định số 972/QĐ-UBND ngày 31.12.2020 về việc giao đất cho Công ty Đại Thành Công để thực hiện dự án.
Tuy nhiên, nhiều năm nay dự án bị “đóng băng”, hiện vẫn chưa thể hoàn thiện đi vào hoạt động do vướng mắc trong việc tính tiền SDĐ.
Ngày 16.7.2018, Công ty Đại Thành Công có văn bản cùng hồ sơ về việc đề nghị đăng ký chuyển mục đích SDĐ để thực hiện Dự án theo Điều 73 Luật Đất đai năm 2013 gửi Sở Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) tỉnh Đồng Nai nhưng cơ quan này từ chối tiếp nhận hồ sơ và hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện theo trình tự thu hồi, giải phóng mặt bằng và giao đất theo quy định tại khoản 3, Điều 62 Luật Đất đai 2013.
Sau đó, Chủ đầu tư đã nhiều lần kiến nghị các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai hướng dẫn thực hiện dự án theo khoản 1 Điều 73 Luật đất đai. Chấp thuận cho doanh nghiệp thay đổi từ hình thức giao đất sang hình thực chuyển mục đích SDĐ. Trường hợp áp dụng Điều 62 Luật Đất đai thì căn cứ thực tiễn doanh nghiệp đã ứng trước tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng để trừ số tiền này vào tiền sử dụng đất phải nộp theo phương án được duyệt. Tuy nhiên, đến nay vấn đề vẫn chưa được giải quyết.
Nhiều Bộ ngành hướng dẫn, dự án vẫn "tắc"
Liên quan đến dự án này, từ năm 2020, Tổng cục Quản lý đất đai (QLĐĐ) – Bộ TN-MT có nhiều văn bản hướng dẫn các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai thực hiện quy định của pháp luật về đất đai.
Tại Công văn số 2468/TCQLĐĐ - CKTPTQĐ ngày 4.11.2020 của Tổng cục QLĐĐ gửi Sở TN-MT tỉnh Đồng Nai về việc hướng dẫn thực hiện dự án tự thỏa thuận góp vốn bằng quyền SDĐ theo Điều 73 của Luật Đất đai có nội dung: Trường hợp dự án đã được chấp thuận đầu tư theo đúng quy định của pháp luật đầu tư thì UBND tỉnh Đồng Nai căn cứ quy định tại các Điều 52, 57, 59, 107, 108, 109, Khoản 4 Điều 114 và Điều 127 Luật đất đai, Điều 14 Nghị định 43 và các điều kiện khác theo quy định của pháp luật khác có liên quan để xem xét, quyết định cho phép doanh nghiệp chuyển mục đích SDĐ để thực hiện dự án.
Ngày 8.6.2021, Tổng cục QLĐĐ tiếp tục có Công văn đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai chỉ đạo các cơ quan chuyên môn kiểm tra, rà soát về nguồn gốc SDĐ, tính chất, mục tiêu dự án để xem xét giải quyết theo đúng thẩm quyền và quy định của pháp luật.
Đối với dự án không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai mà phù hợp với quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì chủ đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền SDĐ, nhận góp vốn bằng quyền SDĐ theo quy định của pháp luật để thực hiện dự án theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Luật Đất đai và Điều 16 Nghị định 43//2014/NĐ-CP ngày 15.5.2014 của Chính phủ.
Ngày 13.1.2023, UBND tỉnh Đồng Nai có Công văn số 363/UBND-KTNS gửi Bộ Tài chính và Bộ TN-MT xin ý kiến hướng dẫn việc xác định khoản được khấu trừ tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng vào tiền SDĐ, tiền thuê đất.
Ngày 1.3.2023, Bộ Tài chính đã có Công văn số 1925/BTC-QLCS phản hồi UBND tỉnh Đồng Nai, với nội dung: Đối với các vướng mắc của UBND tỉnh Đồng Nai về việc doanh nghiệp sử dụng giá trị quyền SDĐ do cá nhân góp vốn để thực hiện dự án có được xem là bồi thường, giải phóng mặt bằng của dự án tương ứng với trường hợp được Nhà nước thu hồi đất hay không? Việc UBND huyện có thực hiện việc lập và phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng (xác định theo thời điểm có quyết định thu hồi đất) để làm căn cứ khấu trừ tiền SDĐ mà doanh nghiệp phải nộp hay không, thuộc chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ TN-MT.
Do đó, Bộ Tài chính đề nghị UBND tỉnh Đồng Nai tổng hợp ý kiến của Bộ TN-MT theo chức năng, trách nhiệm và nhiệm vụ được giao. Đồng thời, chỉ đạo làm rõ việc ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định giao đất cho doanh nghiệp để thực hiện dự án khi chưa thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đã phù hợp với quy định pháp luật về đất đai hay chưa; Trên cơ sở đó chỉ đạo các cơ quan chức năng của tỉnh xác định, thu nộp nghĩa vụ tài chính về quyền SDĐ của doanh nghiệp theo đúng chế độ quy định.
Ngày 5.4.2023, Bộ TN-MT giao Cục Quy hoạch và Phát triển tài nguyên đất có văn bản hướng dẫn Sở TN-MT tỉnh Đồng Nai tham mưu UBND tỉnh kiểm tra, rà soát lại thủ tục đất đai đối với dự án trên để đảm bảo đúng quy định của pháp luật đất đai và xem xét xử lý như sau: Nếu dự án thuộc trường hợp nhà thu hồi đất theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 Luật đất đai thì phải lập phương án bồi thường, tái định cư theo quy định; Nếu dự án thuộc trường hợp nhận góp vốn, nhận chuyển nhượng bằng quyền SDĐ theo Điều 73 Luật Đất đai thì thực hiện thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định.
Ngoài ra, thời gian qua Thanh tra Bộ TN-MT, Văn phòng Chính phủ, Tổng cục Thuế cũng đã có Công văn gửi UBND tỉnh Đồng Nai đề nghị kiểm tra lại quy trình, xem xét giải quyết theo thẩm quyền. Do đó, UBND tỉnh Đồng Nai cần sớm có giải pháp giải quyết dứt điểm vụ việc, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
* Báo Đại Biểu Nhân dân tiếp tục giám sát và thông tin việc thực thi pháp luật liên quan tới dự án này tới bạn đọc và cử tri cả nước.