Động lực quan trọng để phát triển sản xuất hiện đại

- Thứ Tư, 23/12/2020, 07:07 - Chia sẻ
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi đổi mới, Ðảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước; đồng thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để khoa học và công nghệ phát triển. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, khoa học và công nghệ đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Nhất quán chủ trương khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu

Tư duy lý luận về khoa học và công nghệ (KH - CN) được đề cập từ Nghị quyết Trung ương 2, Khóa VIII; Nghị quyết số 20 của Hội Nghị Trung ương 6, Khóa XI; đặc biệt, được củng cố nội hàm và nâng tầm trong Văn kiện Đại hội Đảng Khóa XII đến Nghị quyết số 52 của Bộ Chính trị năm 2019 về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư”. Trong Văn kiện Đại hội XII, nhiệm vụ quan trọng được đặt ra là “Phát triển mạnh mẽ KH - CN, làm cho KH - CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các đại biểu bấm nút Khai mạc Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia năm 2020

Thủ tướng Chính phủ NGUYỄN XUÂN PHÚC: Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu rộng đến nhiều lĩnh vực, để KH-CN thực sự là quốc sách hàng đầu, hướng tới mục tiêu đến năm 2030 có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới, thời gian tới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung chỉ đạo một số vấn đề sau:

- Quán triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả, đồng bộ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển KH-CN mà Nghị quyết Trung ương đề ra.

- Rà soát, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính và doanh nghiệp, bảo đảm đồng bộ với các quy định pháp luật về KH-CN, tạo động lực thúc đẩy ứng dụng KH-CN.

- Tiếp tục tái cơ cấu các chương trình KH-CN quốc gia; ứng dụng các thành tựu KH-CN tiên tiến của thế giới để phát triển các sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh cao của quốc gia.

- Tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển, ứng dụng KH-CN hiện đại.

- Thúc đẩy phát triển mạnh thị trường KH-CN và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH-CN theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Nguồn: Phim tài liệu “Hướng tới Đại hội Đảng XIII” - Tập 5, VTV1, Đài Truyền hình Việt Nam.

5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là thực tiễn nóng hổi sinh động, phong phú để chúng ta tiếp tục khẳng định, bổ sung và làm sâu sắc thêm những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút từ những nhiệm kỳ trước. Dự thảo Văn kiện trình Ðại hội XIII của Ðảng, quan điểm phát triển KH - CN tiếp tục được nhấn mạnh, đó là: “Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán chủ trương KH - CN là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chiến lược phát triển KH - CN phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư.

Trong giai đoạn vừa qua KH - CN đã khẳng định được vai trò động lực phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam. Hiệu quả hoạt động KH - CN được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Quản lý nhà nước về KH - CN có bước đổi mới. Một số cơ chế, chính sách về phát triển, quản lý KH - CN bước đầu phát huy tác dụng, nhất là cơ chế, chính sách quản lý nguồn vốn đầu tư, tài chính...

Khẳng định vị trí, vai trò của khoa học - công nghệ

Thực tế thời gian qua, KH - CN đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần chuyển dịch mô hình tăng trưởng và thăng tiến cao hơn về chuỗi giá trị. Bằng chứng là tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011 - 2015 là 4,3%/năm và tăng lên 5,8% giai đoạn 2016 - 2018. KH - CN đã đóng góp trên 30% tổng giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Với lĩnh vực công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghệ cao, ứng dụng công nghệ tăng từ 26% năm 2010 lên trên 40% năm 2019.

Nghị quyết số 05/2016 Hội nghị Trung ương 4, Khóa XII về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế, đưa ra mục tiêu: “Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 30 - 35%”. Thực tế, chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020 tăng lên 45,2%, tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020; Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm (cao hơn nhiều mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015). Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) liên tục tăng, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 ASEAN, xếp thứ 42/131 quốc gia.

Hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST bắt đầu được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Hiện có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam. Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đạt khoảng 1 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng bình quân công bố quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 là 25,68%/năm..

Trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Theo đó, chúng ta tiếp tục ban hành nhiều chính sách để phát triển như: Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư”; Nghị quyết số 20, Hội nghị Trung ương 6 Khóa XI về phát triển KH - CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Chiến lược phát triển KH - CN giai đoạn 2011 - 2020, Luật KH - CN, Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi, Các Chương trình quốc gia phát triển KH - CN,…

Đầu tư cho KH - CN, nhất là đầu tư của doanh nghiệp đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ. Nếu như 10 năm trước, kinh phí hoạt động KH - CN chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (khoảng 70%), thì đến nay đầu tư cho KH - CN từ ngân sách và doanh nghiệp đã tương đối cân bằng (52% và 48%).

Với diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, ngay đầu năm 2020, Bộ Khoa học và Công nghệ đã huy động các chuyên gia, nhà khoa học và doanh nghiệp triển khai các nhiệm vụ KH - CN phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19, cụ thể: Đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ sinh phẩm RT-PCR và realtime RT-PCR phát hiện chủng mới của virus corona 2019 (SARS-CoV-2); Nuôi cấy và phân lập thành công SARS-CoV-2; Thu thập, tổng hợp các công bố khoa học quốc tế mới nhất về SARS-CoV-2 để cung cấp cho các nhóm nghiên cứu tham khảo và hỗ trợ đặt hàng các nhiệm vụ nghiên cứu cấp thiết phục vụ phòng chống dịch; Nghiên cứu, sản xuất và thử nghiệm thành công sản phẩm robot gồm: VIBOT-1a hỗ trợ y tế và chế tạo, thử nghiệm thành công robot NaRoVid11a.

Với việc nắm bắt và tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH - CN hiện đại đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, có thể tin tưởng rằng, Việt Nam sẽ đi tắt, đón đầu, phát triển KH - CN và ĐMST để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước, thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nguyễn Hạnh