Đồng bằng sông Cửu Long, chương trình 60-B kỷ niệm về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Gs.Tskh NGUYỄN NGỌC TRÂN 19/01/2009 00:00

Tháng 11 năm 1982, Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật nhà nước tổ chức Hội nghị khoa học kỹ thuật đồng bằng sông Cửu Long, dưới sự chủ trì của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

      Tháng 5 năm 1983, Chương trình khoa học “Điều tra cơ bản tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long” (giai đoạn 2), mã số 60-02 được thành lập trong hệ thống chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm cấp nhà nước 5 năm 1981-1985. Tôi có vinh dự được chọn là chủ nhiệm chương trình này(1).
      Cuối năm 1983, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Võ Văn Kiệt đã cho gọi tôi lên để nghe trình bày về Chương trình. Biết đồng chí rất bận, tôi đã gửi trước tài liệu, dành thì giờ giới thiệu những nội dung mà Ban chủ nhiệm muốn được nghe ý kiến của đồng chí để hoàn chỉnh thêm cách tiếp cận mục tiêu và triển khai chương trình. 
      Trước tiên, tôi trình bày tổng hợp không phải là tập hợp và liệt kê lần lượt các yếu tố địa chất, thổ nhưỡäng, thủy văn, khí hậu, tài nguyên sinh vật, tổng hợp, mà, ngoài nội hàm khoa học, còn nhằm một mục đích chỉ ra trên từng đơn vị bản đồ tổng hợp, được hình thành từ các bản đồ đơn tính nói trên, có thể khai thác như thế nào trong nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng... và với những điều kiện gì.
      Thứ hai, kinh tế xã hội là một mảng nội dung quan trọng của Chương trình, trong đó sẽ phân tích hiện trạng cơ cấu kinh tế, các mô hình sản xuất, quan hệ sản xuất và các đặc trưng dân tộc trong khai thác tài nguyên thiên nhiên, để nhận diện được nguồn lực cho phát triển.
      Thứ ba, tranh thủ cao nhất sự đóng góp của các nhà khoa học, không phân biệt nguồn gốc đào tạo và quá trình hoạt động khoa học, và của các trường viện, không chỉ đóng khung trong các bộ ngành chức năng, với mục đích sử dụng được các kiến thức và tiến bộ KHKT mới nhất. Những khác biệt nảy sinh trong quá trình điều tra nghiên cứu là tất yếu, sẽ được thảo luận, đối chiếu kết quả với thực tế. Đây chính là một hoạt động khoa học quan trọng của Chương trình.
      Thứ tư, coi trọng việc kiểm định, mỗi khi có thể được, các kết quả của chương trình bằng thực tế tại địa phương. Nếu các kết quả có đủ cơ sở khoa học, sẽ đề xuất địa phương sử dụng bước đầu ở mức thử nghiệm, vừa để phục vụ sản xuất và đời sống vừa để “nghiệm thu trên thực địa” các kết quả đó.
      Đồng chí lắng nghe, thỉnh thoảng ngắt lời và đề nghị tôi nói rõ thêm. Đồng chí nói đã xem các tài liệu tôi gửi và cho rằng cách làm của chương trình có nét mới và khoa học. Đồng chí dặn dò thêm một số nội dung trong số đó tôi ghi khắc như hai bài học. Một là Chương trình 60-02 cần gắn bó với các địa phương qua đó hiểu biết sâu thêm thực tế, xem đây là một phương thức kiểm định các kết quả điều tra nghiên cứu trên thực địa; giải thích ý nghĩa công việc làm của Chương trình, kịp thời chia sẻ các kết quả với lãnh đạo và các nhà khoa học của các tỉnh và lắng nghe những góp ý thêm từ đây. Hai là nguồn gốc đào tạo khác nhau, quá trình công tác của các nhà khoa học chính là vốn quý và là sức mạnh của Chương trình mà chủ nhiệm cần phải biết vun đắp và phát huy.
      Ngày 4.2.1985, đồng chí tiếp Ban chủ nhiệm chương trình để nghe báo cáo công việc. Hoan nghênh chương trình đã hoạt động tích cực, đồng chí nhắc phải nghiên cứu kỹ vấn đề nước vì có làm rõ cơ sở khoa học thì mới làm tốt quy hoạch thủy lợi, và chúc Chương trình có đóng góp thiết thực cho Đại hội Đảng lần thứ VI.  
      Tháng 6.1986, Chương trình 60-02 được nghiệm thu và được kéo dài sang kế hoạch 1986-1990, mang cùng tên, với mã số mới 60-B. Tháng 7.1987, chương trình khai thác Đồng Tháp Mười được hình thành. Tháng 4.1988, chương trình khai thác Tứ giác Long Xuyên và Tây Nam sông Hậu ra đời. Tháng 5.1989, Ban chỉ đạo nghiên cứu khai thác Bán đảo Cà Mau được thành lập. Dưới sự chỉ đạo của cốë Thủ tướáng Võ Văn Kiệt, các chương trình này rất gắn với Chương trình 60-B. Mặt khác, Chương trình 60-B được đồng chí Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ phải đảm bảo cơ sở khoa học cho các chương trình nói trên thông qua các kết quả của Chương trình. Đối với chương trình và riêng tôi, nhận được sự chỉ đạo trong khoảng thời gian này cùng một lúc từ hai đồng chí là được thụ giáo một trường học đặc biệt, một may mắn mà ít người có được!
      Tôi nhớ như in buổi họp do cố Thủ tướáng Võ Văn Kiệt chủ trì, đã dẫn đến sự thành lập Chương trình khai thác Đồng Tháp Mười. Từ ít lâu, có ý kiến cho rằng Chương trình 60-B “đá lộn sân”. Nhân cuộc họp, tôi xác định Chương trình 60-B không làm quy hoạch nông nghiệp mà cố gắng đưa ra khuyến cáo, trên cơ sở các kết quả điều tra cơ bản tổng hợp, trên từng “chân ruộng” chúng ta có thể canh tác gì và với những điều kiện nào. Ngoài ra, chương trình còn kiến nghị phân bố lại dân cư và lao động vào các địa bàn đất rộng người thưa Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và Bán đảo Cà Mau, một sự phân bố cần thiết vừa có ý nghĩa kinh tế xã hội vừa có ý nghĩa an ninh quốc phòng.
      Hơn mười năm đã trôi qua, tôi vẫn bồi hồi mỗi khi nhớ lại bài phát biểu của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại cuộc họp đánh giá 10 năm chương trình khai thác Đồng Tháp Mười, trong đó có đoạn “dưới sức ép của vấn đề lương thực, rừng tràm đã mất đi khá nhiều. Đây là một bài học cần nhớ vì đó là môi trường, là nước ngọt”.
      Một kỷ niệm khó quên khác là buổi họp về đề án ngọt hóa Bán đảo Cà Mau, cũng do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt chủ trì, một buổi tối năm 1989, tại nhà khách Quân khu 9 (nay là một khu của Khách sạn Ninh Kiều). Chủ trương ngọt hóa được nhất trí cao. Ý kiến còn khác nhau là khả năng ngọt hóa tới đâu, bước đi, và tác động đến môi trường ra sao. Tôi đã trình bày các phương án khác nhau, được mô phỏng bằng mô hình số, và từ đó kiến nghị nên ngọt hóa có lộ trình, bắt đầu từ phía Quản lộ Phụng Hiệp đi dần xuống phía Cà Mau. Phía trên tương đối thuận lợi, phía dưới cần có bước chuyển hóa dần từ môi trường mặn sang lợ và ngọt có theo dõi sát sao khả năng thích nghi. Bước đi còn cần thiết vì về thủy văn thủy lực, có hai vấn đề cần đảm bảo: (1) bơm ngọt bổ sung vào vùng ngọt hóa mà không làm xâm nhập mặn vào sâu trong sông Hậu, vượt quá Đại Ngãi;(2) sự hoàn tất các cống và âu thuyền cùng với sự vận hành đồng bộ của các công trình này là điều kiện bắt buộc để mặn không đánh vu hồi và ăn ruỗng vùng ngọt hóa. Cốë Thủ tướáng Võ Văn Kiệt đã lắng nghe và yêu cầu tôi chiếu lại các kết quả mô phỏng.  
      Chương trình 60-B được nghiệm thu cuối năm 1990. Báo cáo tổng hợp mang tên “Đồng bằng sông Cửu Long, Tài nguyên – Môi trường – Phát triển”. Nhờ có các chương trình ĐTM, TGLX và BĐCM, các kết quả của Chương trình 60-B xem như đã được nghiệm thu thêm trên thực địa và đã đi vào cuộc sống.   
      Tháng 3 năm 1991, tôi nhận được thư tay của anh Sáu Dân đề nghị tôi “chủ trì cùng với một số anh chị em khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) dành thời gian nghiên cứu, xây dựng một chiến lược vùng Nam Bộ. Như vậy để anh chị em khoa học đóng góp được rộng rãi hơn và lãnh đạo có thêm tài liệu để cân nhắc lựa chọn. Mong anh lưu ý xúc tiến.
      Mấy dòng ngắn ngủi giao nhiệm vụ, đơn giản “như trong thời kháng chiến”, không một thủ tục hành chính nào, nhưng chúng tôi ra sức thực hiện bởi lẽ đó là sự tin cậy của anh Sáu Dân, tạo điều kiện để anh chị em khoa học rộng rãi đóng góp trí tuệ vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội một số vùng kinh tế, mà cũng vì lãnh đạo cần có nhiều phương án để lựa chọn. 
      Lĩnh hội được ý nghĩa này, lãnh đạo các tỉnh Nam Bộ, đặc biệt các Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật các tỉnh, thành phố, tạo mọi điều kiện để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Cuối tháng 9.1991, “Phương án Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội vùng Nam Bộ” đã được trình với anh Sáu và sau đó trình bày tại một cuộc họp tại Thành phố Biên Hòa do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt chủ trì. 
      Tài liệu của Phương án gồm có Báo cáo, Các đề tài tổng quát, Các đề tài chuyên ngành (2 tập). Phương án đề xuất mấy điểm đã được thảo luận nhiều: 
      + Xuất phát từ mối giao lưu kinh tế văn hóa gắn bó trong quá trình lịch sử, từ các kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, và từ các điều kiện tự nhiên và môi trường, không gian của Phương án chiến lược được đề xuất mở rộng đến các tỉnh Lâm Đồng và Thuận Hải (2);
      + Thời kỳ của Phương án là thời kỳ kinh tế cần thiết để Nam Bộ vượt qua ngưỡng kém phát triển, thu nhập thấp, theo tiêu chí của Ngân hàng thế giới;
      + Chuyển các số liệu thống kê truyền thống theo hệ thống MPS sang hệ thống thống kê SNA để xây dựng Phương án như đã làm trong Phương án quy hoạch tổng thể Bán đảo Cà Mau (3); 
      + Với các biện pháp chủ yếu, bao gồm 6 chương trình mục tiêu, 6 chính sách căn bản, nếu được sự chỉ đạo phát triển kinh tế vùng, GDP bình quân đầu người của vùng Nam Bộ sẽ vượt ngưỡng thu nhập thấp vào khoảng 2007 - 2010.
      Lời khen của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trong công văn số 1424/Pg ngày 22.10.1991 và công văn cảm ơn của Ban Kinh tế TW Đảng (số153/KT-TW ngày 19.10.1991) là niềm động viên lớn đối với tập thể cán bộ khoa học đã tham gia xây dựng Phương án và đối với Trung tâm Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL.
      Có thể nói không quá lời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một trong những người đã khai sinh Trung tâm này. Chương trình 60-B hoàn thành nội dung khoa học đã đăng ký không có nghĩa công tác điều tra cơ bản tổng hợp vùng đất này đã xong. Tiếp tục, và tiếp tục lâu dài, là cần thiết nhưng bằng cách nào? Là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, Chủ nhiệm Chương trình, tôi đã cùng anh em suy nghĩ nhiều phương án và cuối cùng đề nghị đồng chí Đặng Hữu, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước, đồng chí Phan Văn Khải, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, anh Văn và anh Sáu Dân cho phép thành lập Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, một tổ chức khoa học công lập, có tư cách pháp nhân, tự hạch toán để tiếp tục công việc của Chương trình 60-B theo khả năng. Đặc biệt cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt khuyến khích tôi thử nghiệm mô hình “lấy khoa học nuôi khoa học”. Đến nay, Trung tâm đã được 17 năm và có thể tự hào đã góp phần nhỏ của mình với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trên con đường phát triển.
      Còn rất nhiều kỷ niệm với cốë Thủ tướáng Võ Văn Kiệt trên các nẻo đường của đồng bằng sông Cửu Long mà giới hạn một bài báo không thể ghi lại hết. Tôi muốn dành những dòng cuối của bài viết để nói về hai trăn trở của cốë Thủ tướáng mà đến tối ngày 19.5.2008, cố Thủ tướng còn trao đổi và dặn dò tôi. Đó là vấn đề biển dâng ở đồng bằng sông Cửu Long, và vấn đề luồng cho tàu biển vào sông Tiền và sông Hậu. 
      Tôi đã viết các báo cáo “Ứng phó với biến đổi khí hậu và biển dâng ở Đồng bằng sông Cửu Long và Duyên hải miền Trung. Một số nhiệm vụ cần triển khai”(4), “Quy hoạch thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện biến đổi khí hậu và biển dâng”(5) và “Trách nhiệm đối với Cửa Định An”(6) với niềm thương tiếc vô hạn và để thành kính tưởng nhớ cố Thủ tướng. 
      Một trong nhiều điều mà tôi đã học ở đồng chí đó là không bao giờ chịu khuất phục trước khó khăn bởi trong khó khăn, thách thức hàm chứa thuận lợi và thời cơ; biết khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức sẽ tạo ra thuận lợi mới, thời cơ mới để đi lên. Tôi tin rằng các trăn trở của cốë Thủ tướáng sẽ được các nhà khoa học Việt Nam, ở trong nước và ở nước ngoài, ghi nhớ và sớm tìm ra lời giải có lợi nhất.

      1.Ban Chủ nhiệm chương trình còn gồm có PTs. Hồ Chín (PCN), Gs.Ts. Võ Tòng Xuân (PCN), PTs. Văn Thanh (TK), Gs. Nguyễn Công Bình, Ks. Trần Đức Khâm, GsTs. Nguyễn Tấn Lập, GsTs. Phùng Trung Ngân, Ks. Trần An Phong, PTs. Trần Hồng Phú, GsTs. Trần Kim Thạch, Ts. Tô Phúc Tường. 
      Sở dĩ có ghi “giai đoạn 2” trong tên của Chương trình vì đã có “Chương trình điều tra nghiên cứu tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long” (1978-1981), do Phó Giáo sư Nguyễn Viết Phổ làm chủ nhiệm.
      2. Hiện nay, trong nhiều cuộc họp bàn về phát triển kinh tế-xã hội Nam Bộ hay Miền Đông Nam Bộ, các tỉnh Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận được mời tham dự.
      3. Từ năm 1992, Việt Nam đã từng bước chuyển sang sử dụng về cơ bản hệ thống thống kê SNA. 
      4. Có thể tham khảo trên mạng theo đường dẫn  www.tiasang.com.vn
      5.Có thể tham khảo www.nguoidaibieu.com.vn 
      6. Có thể tham khảo www.tuoitre.com.vn

    Nổi bật
        Mới nhất
        Đồng bằng sông Cửu Long, chương trình 60-B kỷ niệm về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO