Độc lập - Thống nhất - Tự do - Dân chủ - Hùng cường

30/04/2022 07:04

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Nhìn hẹp lịch sử thế giới hơn 100 năm qua, kể từ Đại chiến thế giới lần thứ Nhất, đặc biệt suốt hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, và nhất là hiện nay, đã và đang xác tín: Không thể có một nền độc lập chân chính nếu quốc gia dân tộc không có quyền tự quyết, dân tộc không thể có chủ quyền thực sự nếu không thống nhất toàn vẹn, nhân dân không thể có tự do nếu dân tộc bị lệ thuộc vào dân tộc khác hoặc đất nước bị hay tự cùm trói mình bởi quốc gia khác, dù dưới hình thức này hay mức độ kia.

Mệnh đề Độc lập - Thống nhất - Tự do trở thành khát vọng cháy bỏng và tiếng gọi thiêng liêng của thời đại đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, trước hết và trực tiếp là các dân tộc nô lệ, bị lệ thuộc suốt một trăm năm, kể từ đó cho tới hiện nay.

Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó, kể suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của mình! Và, Đại thắng mùa Xuân ngày 30.4.1975 là một trong những biểu tượng kỳ vĩ nhất của khí phách độc lập, tự do và thống nhất của Dân tộc Việt Nam.

*

*        *

Nhìn trong lịch sử tư tưởng và cách mạng nhân loại, nếu K.Marx bàn về cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.Lenin bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, về đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và giành độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập.

Con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm tòi đó, như trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi Người viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường này xuất phát từ hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác biệt với các nước khác đã phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là nét độc đáo, đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Thâu thái và tiếp nhận những nhân tố có giá trị trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” và xuất phát từ quyền con người ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát chân lý về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Vì thế, các dân tộc thuộc địa muốn có quyền bình đẳng, theo Người, thực sự phải tự đứng lên đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành lại độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn cho dân tộc mình. Nền độc lập tự do hoàn toàn, thật sự ấy, phải là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả xâm phạm của dân tộc. Đây là điều thiêng liêng nhất, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời này là: đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập. Đồng thời, dân tộc độc lập trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Đó là chủ quyền quốc gia tự quyết. Người khẳng định: nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Và, trong nền độc lập đó, mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có nghĩa gì. Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Đây chính là tính nhân văn cao cả và tính triệt để cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Và, Việt Nam đã làm một cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại quyền độc lập cho đất nước, kể từ ngày 2.9.1945.

Nhưng, ngày 23.9.1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, tiếng súng kháng chiến của đồng bào Nam Bộ nổ ngay tại Sài Gòn, mở đầu cho một thời kì kháng chiến bảo vệ thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Ngay sau đó, Bác gửi thư cho đồng bào Nam Bộ và khẳng định: đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi. Và, trong Điều 2 của Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp được Quốc hội thông qua ngày 9.1.1946, ghi rõ: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”.  

Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 Ảnh: Trí Dũng
Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Ảnh: Trí Dũng 

Trước âm mưu tái xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp, trong các thư và điện văn gửi tới Liên Hợp Quốc và Chính phủ các nước vào thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh tuyên bố: Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng Nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước.

Trên con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy rõ nhu cầu của đất nước đó là độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Ngay trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người khẳng định một chân lý “nước Nam là một khối thống nhất có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một giọng nói”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ở tất cả các giai đoạn lịch sử cách mạng, đến khi đi vào cõi vĩnh hằng, trong tư tưởng của Người luôn là độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bác chỉ rõ chỉ giải phóng hoàn toàn dân tộc, khi toàn thể cộng đồng người sống trên toàn cõi nước Việt Nam được giải phóng và sự bảo đảm của một dân tộc được giải phóng khi Tổ quốc được thống nhất.

Đây không chỉ là nhu cầu của sự tồn tại dân tộc, nhu cầu tình cảm dân tộc mà còn trở thành động lực cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội. Thống nhất Tổ quốc tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho công cuộc bảo vệ tự do độc lập chủ quyền Tổ quốc, đồng thời cũng bảo đảm cho công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì thế, “đấu tranh cho thống nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam”.

Ngày 19.12.1946, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong một văn kiện khác, Người viết: “Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng, quyết không làm nô lệ; chỉ có một chí, quyết không chịu mất nước; chỉ có một mục đích: kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc”. Và, trong Thư chúc Tết, đề ngày 1.1.1953, Người khẳng định vấn đề thống nhất đất nước đi liền với giữ gìn nền độc lập: … Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi/ Độc lập, thống nhất, nhất định thành công.

Sau Hiệp định Geneva, một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam được mở ra: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. Từ tháng 7.1954, ngay sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: đấu tranh củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ cũng là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ. Để giành lấy thắng lợi, toàn thể nhân dân, quân đội và cán bộ từ Bắc đến Nam cần phải đoàn kết chặt chẽ, tư tưởng phải thống nhất, hành động phải nhất trí.

Với ý chí và quyết tâm đó, dưới sự lãnh đạo của Bác, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh. Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến (1945 - 1954), dân tộc ta giành chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ (7.5.1954), buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneva (21.7.1954), thừa nhận tất cả các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. 

Cuộc kháng chiến chống Pháp vừa giành được thắng lợi (1954), dân tộc ta lại phải đương đầu với âm mưu và hành động xâm lược trực tiếp của đế quốc Mỹ. Thay mặt cho ý chí và nguyện vọng thiết tha của toàn thể dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc và xem đó là nhiệm vụ thiêng liêng của mọi người dân Việt Nam.

Để khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định thắng lợi; đồng thời chuẩn bị tư tưởng trước cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bước vào một giai đoạn chiến đấu mới quyết liệt hơn, khó khăn hơn và có thể hy sinh nhiều hơn để giành lấy thắng lợi hoàn toàn. Ngày 17.7.1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước”. Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu một chân lý nổi tiếng, có sức lan tỏa rất xa và có sức mạnh tập hợp đoàn kết rất mạnh mẽ, đồng thời khẳng định một niềm tin lớn vào ngày mai. Đó là chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đây không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc Việt Nam, sự thống nhất của Tổ quốc; đồng thời, là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đây là một thắng lợi lớn trên con đường miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc cho sự nghiệp hoàn thành giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc.

Tuy nhiên, liền sau Hội nghị Geneva sự thống nhất độc lập Tổ quốc lại bị đe dọa một lần nữa. Kẻ thù lại âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong thời khắc cam go của lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng.

Với niềm tin chắc chắn vào thắng lợi cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và “tinh thần cao cả của Người đã khiến cho ngay cả những kẻ thù địch với Người cũng phải kính trọng, khâm phục, và hơn ai hết, Người đã tập hợp được chung quanh tên tuổi của Người những cuộc đấu tranh và những niềm hy vọng của những người bị áp bức trên khắp trái đất”. "Vì độc lập, vì tự do”! Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đập tan âm mưu chia cắt đất nước của đế quốc Mỹ và bè lũ ngụy quyền, làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Ngày 27.1.1973, trong Hiệp định Paris, Chính phủ Mỹ phải cam kết: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneva năm 1954 về Việt Nam đã công nhận”.

Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Nhân dân ta “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", đánh sập chủ nghĩa thực dân mới, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc; đất nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, dưới ngọn cờ của Đảng.

Đó là sự tiếp nối truyền đời khí phách giữ nước của ông cha ta: đánh Hán, phá Tống, đạp Nguyên, bình Minh, đuổi Thanh, đánh sập chủ nghĩa thực dân cũ đế quốc Pháp… 

Đó là hiện thân và sự phát triển vẻ vang của tinh thần độc lập tự do, thống nhất quốc gia, danh dự của dân tộc trải mấy ngàn năm của Tổ tiên ta, không gì và không lực lượng nào có thể làm vấy bẩn, đe dọa và khuất phục nổi!

Và, đó là sự phát triển tới đỉnh cao sự thống nhất sức mạnh dân tộc Việt Nam trong dòng chảy sức mạnh thời đại ngày nay.

*

*         *    

Tròn 47 năm đất nước trong độc lập, tự do, thống nhất (1975 - 2022), đi qua biết bao biến thiên thăng trầm của lịch sử nhưng cũng là thời khắc chúng ta suy ngẫm và tôn vinh ý chí độc lập, tự do, thống nhất và hùng cường của nước nhà, trong bối cảnh mới, trước nguy cơ mới và thời vận mới.

Nhân lên sức mạnh khí phách ấy, hơn bao giờ hết, ngay từ năm 2022, chúng ta càng thấu hiểu rằng, không thể kỳ vọng vào công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, vì đất nước phồn vinh thành công, khi mất cảnh giác hay buông lơi sứ mệnh gìn giữ và phát triển nền độc lập, tự do và thống nhất đất nước, nếu dù chỉ một phút thúc thủ, thoái bộ trước khát vọng Tổ quốc hùng cường.   

Hơn bao giờ hết, hiện nay, tư tưởng độc lập, tự do, thống nhất đất nước càng tỏa sáng tất cả vì con người, vì dân tộc; lấy con người, lấy dân tộc làm động lực, mục tiêu của mọi sự phát triển. Vì, độc lập, tự do, thống nhất là quy luật phát triển và tồn tại của dân tộc Việt Nam. Đại thắng mùa Xuân 1975 là hiện thân chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của mọi người Việt Nam yêu nước; của khối đại đoàn kết 54 dân tộc trên toàn cõi Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, phản ánh quy luật phát triển và tồn tại ấy.

Hơn bao giờ hết, hiện nay, chúng ta càng thấu hiểu rằng: với lợi ích quốc gia dân tộc là tối cao, “độc lập có nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn. Và, từ lịch sử càng cho chúng ta một bài học lớn về giá trị của độc lập không có nghĩa là tự cô lập mình, tự mình khép kín; và bằng mọi giá kiên quyết bảo vệ nền độc lập đó, quyết không bị chi phối hay bị lệ thuộc từ bất cứ phía nào về chính trị hay kinh tế… Không thể dung nạp và chấp nhận tầm nhìn thiển cận, tư duy cục bộ, càng không thể dung thứ tình trạng cát cứ, “sứ quân”, khoanh vùng… trong sự phát triển thống nhất của Tổ quốc. Đó là nghệ thuật phát triển sự độc lập sáng tạo, thống nhất trong đa dạng, tự chủ và tự quyết của chúng ta trên con đường vươn tới hùng cường. 

Hơn bao giờ hết, hiện nay, từ kinh nghiệm và bài học thực tế của Việt Nam và thế giới, khi "một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Nghĩa là, "mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do. Chúng ta phải tự mình trở nên hùng mạnh. Đó là phương lược bảo vệ và phát triển nền độc lập, tự do của Tổ quốc từ xa và vững chãi. Việt Nam kiên định chính sách nhằm mục đích hòa bình, tự vệ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ trong thời bình, nỗ lực ngăn ngừa không để xảy ra xung đột, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế. Đồng thời, kiên định, nhất quán với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng.

Hơn bao giờ hết, hiện nay, chúng ta càng thấu hiểu rằng, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Ngay từ ngày 17.10.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra trước lịch sử như thế. Để thực thi mục tiêu cao cả đó, việc cố kết lòng người, cố kết toàn dân tộc, tạo nên sự đồng thuận và khối đại đoàn kết toàn dân có ý nghĩa trọng đại. Tới đây, nhớ lại cuộc bút đàm giữa Cụ Phan Bội Châu với nhà cải cách Trung Quốc Lương Khải Siêu (1873 - 1929), khi Lương khuyên Cụ: Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập… Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí, và nhân tài”.

Và, hơn bao giờ hết, tư tưởng độc lập, tự do, thống nhất đất nước, tinh thần hòa hợp, đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện nay, cần tỏa sáng và thấm đẫm tính nhân văn sâu sắc và đạo lý cao thượng không ngừng nâng cao dân trí, phát triển dân khí, trọng dụng nhân tài. Sức mạnh Nhân dân đoàn kết là vô địch! Đó cũng là trọng trách và danh dự của gần 100 triệu người Việt Nam con Lạc cháu Hồng đối với Tổ quốc mình và trước thế giới. Tư duy chính trị đúng đắn, đặt quyền lợi dân tộc lên trước hết, trên hết, không ngừng hòa hợp là con đường nhất định dẫn tới một tương lai tốt đẹp, tự do, một xã hội công bằng, dân chủ, hùng cường, văn minh. Đó chính bản lĩnh quật cường của đất nước, sức mạnh trầm tích và hiện hữu của dân tộc, vì độc lập, tự do, thống nhất và dân chủ, quốc gia vươn tới hùng cường có ý nghĩa quyết định thành công.

Tất cả vì nền độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc!

Tất cả vì hạnh phúc của Nhân dân!

    Nổi bật
        Mới nhất
        Độc lập - Thống nhất - Tự do - Dân chủ - Hùng cường
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO