64% doanh nghiệp “chưa chuẩn bị gì”
Để đánh giá diện rộng về mức độ sẵn sàng và rào cản của doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi xanh, Ban IV đã phối hợp thực hiện khảo sát 2.734 đại diện doanh nghiệp để xây dựng báo cáo, trình Thủ tướng Chính phủ mới đây.
Theo kết quả khảo sát, có 48,7% doanh nghiệp đánh giá rằng giảm phát thải, chuyển đổi xanh là cần thiết và rất cần thiết. Đáng ngạc nhiên là không có nhiều sự khác biệt trong đánh giá mức độ cần thiết phải giảm phát thải, chuyển đổi xanh giữa các doanh nghiệp chỉ hoạt động nội địa và doanh nghiệp xuất khẩu. Theo đó, 32,3% doanh nghiệp xuất khẩu cho rằng cần thiết giảm phát thải và chuyển đổi xanh, thì con số này ở doanh nghiệp chỉ hoạt động nội địa là 31,1%. Tuy vậy, vẫn có 17,4% doanh nghiệp khảo sát đánh giá giảm phát thải, chuyển đổi xanh là không cần thiết hoặc rất không cần thiết.
Về lĩnh vực hoạt động, 59,6% doanh nghiệp ngành nông, lâm, thủy sản đánh giá cần thiết giảm phát thải, chuyển đổi xanh, cao hơn so với mức 54,1% của các doanh nghiệp ngành công nghiệp và khoảng 45% doanh nghiệp ngành xây dựng, dịch vụ. Các doanh nghiệp FDI có tỷ lệ đánh giá cần thiết phải giảm phát thải, chuyển đổi xanh cao hơn một chút so với doanh nghiệp trong nước (55,2% so với 48%).
Liên quan mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong hoạt động giảm phát thải, chuyển đổi xanh, có đến 64% doanh nghiệp được khảo sát “chưa chuẩn bị gì”. Các hoạt động “cắt giảm lượng khí thải trong một số hoạt động trọng tâm” chỉ có 5,5% doanh nghiệp cho biết “đã thực hiện”, còn tỷ lệ doanh nghiệp “đã thực hiện theo dõi và công bố kết quả giảm phát thải hàng năm” chỉ ở mức 3,8%.
“Với các diễn biến chính sách từ các thị trường lớn như châu Âu, Mỹ và nội luật hóa ở Việt Nam, việc các doanh nghiệp dường như chưa chuẩn bị gì sẽ tạo ra những sức ép rất lớn trong tương lai khi các quy định hết thời gian chuyển tiếp và chuyển sang giai đoạn bắt buộc tuân thủ”, Ban IV nhìn nhận.
Mặc dù đều nhận thức được sự cần thiết phải chuyển đổi, song mức độ sẵn sàng của các doanh nghiệp chỉ hoạt động nội địa không cao như các doanh nghiệp hoạt động hướng đến xuất khẩu. Theo đó, trong khi 68,7% doanh nghiệp phạm vi hoạt động trong nước chưa chuẩn bị gì cho giảm phát thải, chuyển đổi xanh, thì tỷ lệ này ở doanh nghiệp có phạm vi hoạt động ở nước ngoài chỉ là 53,7%; doanh nghiệp hoạt động cả nội địa và nước ngoài là 55,6%...
Ở khía cạnh sức ép, động lực của doanh nghiệp, có 51,9% chuyển đổi liên quan đến động lực tối ưu hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Các yêu cầu từ đối tác, khách hàng trong chuỗi sản xuất quốc tế hoặc trong nước là nguyên nhân thứ hai với 36,7%. Tạo ra giá trị tăng thêm từ tín chỉ carbon là động lực có tỷ lệ lựa chọn thấp nhất với 22,7%.
Đẩy nhanh tạo lập thị trường tín chỉ carbon
Thực tế cho thấy mức độ quan tâm của doanh nghiệp đối với chuyển đổi xanh đã có sự cải thiện dần, song doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn. Trong đó, nguồn vốn là khó khăn lớn nhất (50%). Đáng chú ý, các doanh nghiệp quy mô vừa gặp khó khăn nhất về nguồn vốn so với các doanh nghiệp quy mô nhỏ và lớn. Đây là một vấn đề cần sự quan tâm đặc biệt vì trong khi doanh nghiệp rất cần vốn cho giảm phát thải, chuyển đổi xanh để đón đầu các cơ hội thì tài chính xanh chưa phát triển tương ứng, Ban IV nhìn nhận. Bởi sau hơn 10 năm tài chính xanh được triển khai ở Việt Nam nhưng quy mô vẫn nhỏ, tín dụng xanh chỉ chiếm 4,5% tổng dư nợ tính đến hết năm 2023, theo Ngân hàng Nhà nước.
Tìm kiếm nguồn nhân lực có chuyên môn giảm phát thải cũng là bài toán khiến các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp FDI, phải “đau đầu” vì không biết tìm ở đâu, do đây là lĩnh vực mới, đặc thù. Bên cạnh đó, dù có nhiều tổ chức, công ty tư vấn tiếp cận giải pháp kỹ thuật, nhưng doanh nghiệp vẫn khó đưa ra các lựa chọn cụ thể do các tổ chức, công ty tư vấn hoạt động không đồng nhất, giá tư vấn và hình thức tư vấn cũng có sự khác biệt và chênh lệch...
Trong bối cảnh giảm phát thải, chuyển đổi xanh không còn là lựa chọn mà mang tính bắt buộc, Ban IV khuyến nghị, Việt Nam cần hành động ngay để bắt kịp yêu cầu, xu thế từ các thị trường, đối tác thương mại chính.
Theo đó, trước tiên, Chính phủ cần hoàn thiện mang tính tổng thể các thể chế, chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi xanh, bao gồm việc rà soát các chính sách và quy định pháp lý đã tồn tại để phù hợp với xu hướng chuyển đổi, phù hợp với mô hình kinh tế tái chế, tuần hoàn…
So với nhiều quốc gia trong khu vực, việc tạo lập thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam đang tỏ ra chậm trễ ở một số khía cạnh và cần được đẩy nhanh hơn, vì đây được coi là mảnh ghép quan trọng để các doanh nghiệp và quốc gia chuyển đổi xanh. Cụ thể, bên cạnh các nỗ lực xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách, hạ tầng giao dịch mua bán tín chỉ, cần thúc đẩy mức độ sẵn sàng về “sản phẩm” (gồm hạn ngạch phát thải, tín chỉ carbon ở các lĩnh vực), mức độ sẵn sàng của các chủ thể giao dịch trên sàn (gồm doanh nghiệp, các tổ chức trung gian, chuyên gia, cơ quan quản lý nhà nước liên quan…).
Nhằm tháo gỡ 3 khó khăn về vốn, nhân sự chuyên môn, giải pháp kỹ thuật, các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung vào các giải pháp gồm: ban hành danh mục dự án xanh, các tiêu chí xanh trong các lĩnh vực để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tài chính xanh; đẩy mạnh các chương trình chia sẻ thông tin, chuyển giao công nghệ xanh đến các doanh nghiệp trong các ngành cụ thể; tổ chức đào tạo nhân lực liên quan đến kiểm kê khí thải nhà kính, thị trường tín chỉ carbon; đồng thời truyền thống chính sách liên quan chuyển đổi xanh đến doanh nghiệp hiệu quả và kịp thời hơn, Ban IV nêu.